Cư Sĩ Phật Giáo

Buddhists for a better world

Archive for the category “Cư Sỉ”

Rượu độc, thịt bẩn tung hoành

ScreenHunter_07 Jan. 23 08.56

Rượu độc, thịt bẩn tung hoành
> Tràn lan thực phẩm có hóa chất độc hại
TP – Cồn, nước lã, phẩm màu được biến thành rượu “xịn” khiến dân nhậu nhập viện vì ngộ độc. Cùng với đó, thịt thối cộng với huyết heo, phẩm màu và hóa chất độc hại được “biến” thành đặc sản thịt đà điểu.
ScreenHunter_09 Jan. 23 09.16<
Số thịt bẩn này nếu được hóa phép sẽ thành đặc sản ở các quán nhậu. Ảnh: Lê Nguyễn.
Hầu hết rượu chứa độc chất
TS Nguyễn Đình Phú – Phó Giám đốc BV Nhân dân 115 cho biết, vừa cứu sống ô ng Trần Văn H., 46 tuổi, ở Long An, nhập viện trong tình trạng ngộ độc rượu rất nặng. Cách đây 10 ngày, ông H. lai rai với một bạn nhậu gần nhà, sau cơn say ông H. mất trí nhớ, nôn ói, khó thở và được người nhà đưa cấp cứu tại bệnh viện địa phương, sau đó chuyển lên BV Nhân dân 115.
Tại đây, các bác sĩ khẳng định ông H. bị ngộ độc rượu. Loại rượu mà ông H. uống có nguồn gốc từ lò nấu rượu thủ công gần nhà. Kết quả xét nghiệm cho thấy, nồng độ aldehyde vượt mức quy định hàng trăm lần.
“Với nồng độ cồn cao như vậy, người uống không ngộ độc mới lạ”- TS Phú nói. Cận Tết, tình trạng ngộ độc rượu phải vào cấp cứu ở các bệnh viện không còn xa lạ nữa. Tại bệnh viện cấp cứu Trưng Vương TPHCM, mới đây, các bác sĩ cấp cứu liên tiếp hai bệnh nhân ngộ độc rượu rất nặng. Khi xét nghiệm thấy nồng độ aldehyde trong máu bệnh nhân quá cao. Mang mẫu rượu bệnh nhân uống đi xét nghiệm phát hiện chất methanol và aldehyde vượt trên 60 lần.
Kết quả xét nghiệm 54 mẫu rượu không nhãn mác ở TPHCM và các tỉnh lân cận mới đây do Viện Vệ sinh Y tế Công cộng TPHCM công bố khiến nhiều người giật mình: 47 mẫu rượu chứa aldehyde vượt mức cho phép. Rượu trắng, rượu ngâm có chất aldehyde, furfurol vượt cao nhưng không thể so sánh với rượu mùi với hàm lượng aldehyde hơn mức cho phép hàng trăm lần.
Khi kiểm tra hai cơ sở rượu ngâm và rượu mùi ở quận Bình Thạnh, huyện Hóc Môn, Chi cục Quản lý thị trường TPHCM thu giữ hơn 3.000 chai rượu các loại không có giấy phép sản xuất. Số rượu này, chế bằng cách dùng rượu trắng pha cồn công nghiệp, phẩm màu để ra rượu thuốc, rượu mùi. Không chỉ rượu thủ công, kết quả kiểm nghiệm của Viện Vệ sinh y tế Công cộng TPHCM cũng cho thấy rượu xịn, mác ngoại cũng chứa hàm lượng aldehyde rất cao.
Khi xét nghiệm rượu mùi brandy extra XO Leopold 39%vol, phát hiện hàm lượng aldehyde lên mức 230,15mg/l. Kết quả kiểm nghiệm nước cốt rượu brandy Solera Reserva 38% cũng cho thấy lượng aldehyde lên tới 286,81mg/l. Cả hai loại rượu này đều vượt so với quy định hàng chục lần.
ScreenHunter_08 Jan. 23 09.06
Tràn lan rượu tự chế đầy độc chất. Ảnh L.N.
Thịt đà điểu đểu, chim giả
Khi ập vào Cơ sở sản xuất thực phẩm Tấn Phát ở 460/6/9 hương lộ 2, Bình Trị Đông, Bình Tân, TPHCM mới đây, Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm và môi trường (PC49) Công an TPHCM phát hiện công nghệ lên đời các loại thịt bẩn thành đặc sản rất tinh vi và mất vệ sinh.
Tại cơ sở này, nhiều công nhân thu gom thịt heo nái, thịt thối và thịt trăn giá bèo về để chế biến thịt đặc sản. Một công nhân cho biết, thịt heo nái trộn với thịt trăn và phẩm màu hòa cùng huyết heo sẽ cho ra đời… thịt đà điểu. Số thịt này sau đó được đưa đi cung cấp cho các nhà hàng có tiếng ở TPHCM.
Chủ cơ sở Tấn Phát khai nhận, sau khi mua thịt trăn về, nhân viên của cơ sở trộn thịt trăn với oxy già làm cho thịt trắng tinh. Riêng thịt heo nái, cơ sở này lọc hết mỡ rồi trộn phẩm màu công nghiệp màu đỏ, sau đó ướp với huyết heo. Khi thịt ráo nước chúng được đưa vào bịch hút chân không và khi chế biến sẽ có vị dai như thịt đà điểu.
Bà Đặng Thị Tuyết – Trưởng trạm kiểm dịch động vật Thủ Đức cho biết, vừa phát hiện một lượng lớn thịt heo nái xề làm giả thịt heo rừng vận chuyển từ một tỉnh miền Bắc vào TPHCM tiêu thụ. Theo bà Tuyết, do quan niệm đầu năm ăn thịt heo rừng gặp may, lợi dụng cơ hội này các đầu nậu bắt đầu dùng công nghệ biến thịt heo nái thành thịt rừng.
“Bằng cách mua thịt heo nái sau đó dùng khò đốt da rồi dùng súng bắn lông 3 chấu vào miếng thịt vừa khò biến thịt lợn nái thành thịt rừng” – bà Tuyết cho biết.
Không chỉ thịt rừng ở các nhà hàng hiện nay hầu hết là thịt đểu, ngay cả thịt cá sấu cũng bị làm giả từ thịt heo thối. Mới đây, Trạm thú y huyện Bình Chánh phát hiện một cơ sở giết mổ ở huyện này đã mua thịt heo bệnh, heo không nguồn gốc về, ngâm tẩm bằng sunfua dioxit để làm cho thịt đã tái nhợt thành đỏ tươi. Sau khi biến thịt thối thành thịt sậm đỏ, cơ sở này đóng vào gói với tên gọi thịt đà điểu.
Ngày 9-1, khi chạy ra đường dẫn lên cầu Phú Mỹ ở quận 2 mua thịt chim về làm mồi nhậu, anh M. ở quận 8 cho biết đã gặp phải thịt chim giả. “Mua 10 con chim chàng nghịch với giá 650.000 đồng về làm thịt, khi mổ bụng thì tôi mới phát hiện toàn là chim cút đã ươn thối” – anh M. nói.
Theo khảo sát của Chi cục kiểm lâm TPHCM, các điểm bán chim hiện nay hầu hết là chim giả. Đa số là chim cút sau khi được vặt lông, khò cho cháy, bôi phẩm màu vàng để giả các loại chim quý.
Lê Nguyễn
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/564596/Ruou-doc-thit-ban-tung-hoanh-tpp.html

Thần chết mang tên men rượu độc

Thần chết mang tên men rượu độc
> Rượu độc, thịt bẩn tung hoành
TP – Một ngày có hàng chục nghìn lít rượu được dân nhậu tiêu thụ. Ít ai biết được trong số rượu ấy được nấu từ những loại men độc hại. Trong vai người đi học nấu rượu, chúng tôi mục sở thị công nghệ chế “đặc sản” rượu đế độc hại.
ScreenHunter_05 Jan. 23 08.56
Men Trung Quốc bán tràn lan ở chợ, giúp rượu tăng độ nặng và nấu được nhiều rượu hơn. Ảnh: L.N .
Ma trận men rượu
Nhờ một người bạn ở Long An giới thiệu, chúng tôi được các lò rượu nổi tiếng ở đây nhận vào học nấu rượu đặc sản Gò Đen. Khi ghé đến lò nấu rượu Ngọc Hiếu (ấp 2, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, Long An), ông chủ Nguyễn Thanh Hiếu 41 tuổi, niềm nở đưa ra 3 loại rượu nhà nấu, rượu gạo trắng, nếp than và chuối hột mời chúng tôi uống thử.
“Nói là rượu Gò Đen nhưng thực ra giờ chỉ còn cái thương hiệu thôi, chứ cách nấu và chất lượng rượu đã công nghiệp hết rồi chú ạ”- chủ lò rượu này không giấu diếm. Gia đình anh Hiếu nấu rượu đã hơn 30 năm nay.
“Trước kia nấu rượu phải qua mấy công đoạn gồm nấu gạo thành cơm, phơi cho cơm nguội rồi ủ bằng men. 3 – 4 ngày sau khi cơm đã lên men thì cho vào thùng đổ nước và 7 ngày sau cho vào lò chưng cất, mỗi ngày chỉ có thể nấu được 2 nồi. Nhưng giờ nhờ men Trung Quốc nên giảm nhiều công đoạn. Chỉ cần 3 ngày là đã có rượu”- ông chủ này cho biết.
ScreenHunter_06 Jan. 23 08.56
Khu nấu rượu của Đức tại Bình Dương hết sức mất vệ sinh. Ảnh: G.H.
Để tạo ra hàng nghìn lít rượu Gò Đen nổi danh một thời, giờ đây hầu hết các chủ lò rượu ở Bến Lức đều dùng các loại men hoặc hương liệu từ Trung Quốc để rượu “nặng đô”.
Khi đến chợ Bình Tây quận 6, TPHCM hỏi mua men Trung Quốc chủ các sạp bán men ở cổng số 3 của khu chợ cho biết có nhiều loại với giá khác nhau. Men Trung Quốc màu trắng được vo nhỏ như những quả trứng chim cút, giá 10.000 đồng/bịch 100 viên, còn men bột được đóng trong bao nilon, ngoài ghi chi chít chữ Trung Quốc bán sĩ 50 gói 500gr có giá 120.000 đồng. Chủ cửa hàng bán men 152, cho biết: “Hồi trước có bán men nước của Trung Quốc nhưng mới đây nghe tin có ngộ độc chết người nên tui tạm ngưng bán”.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, men mà dân nấu rượu Bến Lức hiện nay đang dùng chủ yếu lấy từ 3 mối chính, những mối này mang tận các lò để bỏ gồm men cục truyền thống cho rượu cơm và men bột của Trung Quốc.
Biết được tay bỏ mối men có thị phần lớn nhất ở đây tên Nhất, chúng tôi tìm đến cửa hàng của Nhất tại chợ Bình Chánh, huyện Bình Chánh -TPHCM.
Nhà phân phối này đưa ra 3 loại men khác nhau với lời giới thiệu men cục truyền thống, men bột Trung Quốc và loại men nước cũng của Trung Quốc kèm theo thông tin 80% dân nấu rượu đã dùng men Trung Quốc này vì “rượu rất ngon”.
Tỉnh Bình Dương, thị trường tiêu thụ rượu gạo lớn hơn TPHCM mà đối tượng chủ yếu là công nhân. Cơ sở nấu rượu của anh Trần Văn Đức thuộc xóm Nghèo, thị xã Dĩ An, Bình Dương chuyên cung cấp 100 lít rượu mỗi ngày cho các quán cóc, tại Dĩ An, Thủ Đức.
Cầm trên tay gói men nước của Trung Quốc, ông chủ 31 tuổi quê Nam Định cho biết: “Loại men này mới, chỉ cần hòa 100gr với 20 lít nước rồi cho 10kg gạo vào 2 ngày sau mang ra nấu. Rượu đạt độ cồn cao. Đức thừa nhận men Trung Quốc rất độc nên không thể pha trộn quá tay. Nếu nấu men Bắc thì 10kg chỉ được 10 lít rượu nhưng loại này được tới 15 lít”.
Men truyền thống luôn có dạng cục, nhưng men Trung Quốc chỉ có thể là bột và nước. Men truyền thống thơm vị riềng nhưng men Trung Quốc rất hắc và khó ngửi. “Men Trung Quốc dùng ủ sắn sẽ chuyển màu vàng, ủ cho ngô sẽ chuyển màu xanh”, Đức nói.
Vào nhà kéo nguyên bao tải loại 50kg ra với một nửa là men bột, một nửa là men nước, chủ cơ sở rượu này lấy mỗi loại 10 gói cho 100kg gạo. Đức đeo bao tay “vì nếu dùng tay không sẽ ngứa” sau đó trộn đều 100kg gạo với 10 gói men bột rồi cho vào thùng ủ và 10 gói men nước pha với 200 lít nước rồi cho 100kg gạo vào thùng ủ.
Chưa chết mới lạ
Chỉ cần 3 tiếng nấu rượu, chủ lò rượu Đức đã nấu được 150 lít rượu loại dùng men nước. Sau khi rượu nguội, Đức dùng túi siêu lọc lọc rượu đục ra từng can 30lít trong vắt như nước lọc.
Khi hỏi Đức đã thấy ai bị ngộ độc khi uống rượu được nấu từ loại men nước này chưa? Đức vừa cười vừa nói: “Đã uống là ngộ độc chứ sao, đau đầu, ói mửa… là ngộ độc nhẹ, chết là nặng. Quan trọng là hàm lượng men”.
ScreenHunter_07 Jan. 23 08.56
Lọc rượu trước khi chế. Ảnh: G.H.
Khu nấu rượu của gia đình ông Hiển ở Long An chỉ rộng 15m2 nhưng có tới 3 nồi nấu rượu. Bên cạnh đó là khu nuôi lợn bốc mùi hôi thối, chất thải được cơ sở này đổ hết xuống ao, nước ao lại lấy để làm nước ủ rượu.
Cầm xô nước ra ao múc thứ nước đen ngòm và hôi mùi chất thải của lợn, ông Hiển đổ vào thùng rượu đang ủ bằng men bột Trung Quốc trước sự chứng kiến của chúng tôi.
“Loại rượu này chủ yếu tiêu thụ cho giới công nhân, hay những điểm bán lẻ, những quán nhậu ven đường ở Sài Gòn và quanh đây. Còn những nhà hàng thì họ đặt rượu gạo nấu và dùng men truyền thống nhưng giá cao hơn”.
Theo tìm hiểu, giá chung của các lò rượu tại đây bán ra, gạo trắng là 15.000đ/lít, nếp than 22.000đ/lít và chuối hột là 18.000đ/lít. Còn rượu nấu cho nhà hàng thì giá cao hơn 5.000-7.000 đồng/lít.
Lò rượu của anh Thân cách lò rượu Ngọc Hiển 3 căn nhà. Lò rượu này có lương tâm hơn khi gạo được nấu thành cơm, phơi ra bạt ngoài sân cho nguội cũng như “chiêu đãi” ruồi và gà chơi đùa rồi mới trộn men để ủ.
“Rượu nấu xong một phần bán ở ngoài quốc lộ 1, còn lại thì cho người đi bỏ mối Sài Gòn. Nhà tôi nhỏ chỉ nấu có 2 nồi, mỗi ngày sản xuất hơn 100 lít thôi”. Người đàn ông 32 tuổi, chân tay đầy bùn đất vì mới ra ruộng phun thuốc sâu về không cần rửa chân tay cứ thế ủ rượu nói.
Anh Phạm Văn Thái chủ lò rượu khá nổi tiếng ở chợ đầu mối Hóc Môn, TPHCM, nói: Ngộ độc rượu gây tử vong hàng loạt vừa qua là do người nấu rượu cho quá chất men.
“Nếu cho men vừa phải uống cũng bị ngộ độc nhẹ rồi, chứ đằng này đã dùng men Trung Quốc nhưng lại cho vào “quá tay” không ngộ độc gây chết mới lạ”- anh Thái khẳng định.
(Còn nữa)
Lê Nguyễn – Gia Huy
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/599724/Than-chet-mang-ten-men-ruou-doc-tpp.html

TÁC HẠI CỦA TÂY DU KÝ – Cư sĩ Tuệ Đăng

TÁC HẠI CỦA TÂY DU KÝ
Cư sĩ Tuệ Đăng

Có câu hỏi như sau:
“Trong lễ Hồng Danh Sám Hối, chúng tôi niệm danh hiệu “Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật”. Theo truyện Tây Du, sau khi cùng với Sư Phụ là thày Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh, ngài Tôn Ngộ Không được phong là Đấu Chiên Thắng Phật. Vậy Đấu Chiến Thắng Phật Tôn Ngộ Không này có phải chính là vị Phật trong kinh Hồng Danh Sám Hối không?”
Đây là một câu hỏi rất đặc biệt. Nhân câu hỏi này, chúng ta sẽ có dịp thảo luận về một đề tài gây nhiều hiểu lầm trải dài nhiều thế kỷ và lan rộng tại nhiều vùng địa danh trên thế giới.
Thật vậy, tác phẩm Tây Du K‎ý đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Việt ngữ, Nhật ngữ, Thái ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ vân vân … và đã được nhiều đạo diễn dựng thành kịch bản, thành phim điện ảnh, do đó, nội dung Tây Du K‎‎ý đã tạo dấu ấn vào tâm tư của nhiều thế hệ và nhiều tầng lớp người thưởng ngoạn. Vì thế, chúng ta rất nên tìm hiểu coi dấu ấn và ảnh hưởng của cuốn sách này tác động vào tâm tư độc giả là tốt hay xấu và có lợi hay có hại cho người đọc.
Vậy Tây Du K‎ý‎ là gì?
Đó là tên cuốn truyện do tác giả Ngô Thừa Ân sáng tác, chỉ dựa vào một chi tiết có thật độc nhất là «Tam Tạng pháp sư Huyền Trang được vua nhà Đường nước Trung Hoa cử sang Tây Trúc (tức là Ấn Độ) thỉnh kinh ». Từ chi tiết có thật đó, tác giả đã viết ra một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, hoang đường, xúc phạm sự tôn nghiêm của đức Phật, hạ thấp phẩm cách chư đại đệ tử Phật và nhất là bôi nhọ pháp sư Huyền Trang, khiến cho độc giả mất thiện cảm với giới tu hành nhà Phật, cản trở con đường tìm hiểu và tu tập theo Phật pháp một cách nghiêm túc.
Nếu tác giả dùng thể tiểu thuyết để hư cấu một câu chuyện thì không có gì đáng nói vì độc giả sẽ coi như đó chỉ là cuốn tiểu thuyết giả tưởng để giải trí. Nhưng vì ông dùng thể k‎ý sự và lạm dụng tên nhân vật chính cùng với câu chuyện có thật là “Đường Tam Tạng thỉnh kinh tại Tây Trúc” trong sáng tác của ông, nên đã tạo ấn tượng vào tâm trí độc giả rằng đây là chuyện đã thật sự xảy ra, khiến cho có những người đã dùng cuốn Tây Du K‎‎ý như tài liệu để học tập, thảo luận, thậm chí có người đã viết thành những cuốn sách bình luận, ca ngợi vai trò của những con khỉ Tôn, con heo Trư trong truyện Tây Du, cố tình gán ghép triết l‎‎ý kiểu «gọt chân cho vừa giầy», gán cho cuốn sách những tư tưởng cao siêu một cách hoang đường đề cao hành động của mấy con vật hư cấu trong khi xóa tan công đức cao cả vĩ đại của ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang.
Cũng vì sự xuyên tạc này của cuốn Tây Du K‎ý‎ và sự suy tôn cuốn sách một cách vô trách nhiệm của một số người khiến đã nảy sinh những hiểu lầm, đưa tới giảm thiểu sự tôn kính Phật tổ Như Lai và chư Đại Đệ Tử, đồng thời cũng hiểu lầm luôn cả giáo l‎ý‎ nhà Phật cùng với lịch sử Phật giáo.
Cũng xin thưa rằng từ ngữ “pháp sư” trong nhà Phật có nghĩa là thày dạy Phật pháp, Tam Tạng Pháp Sư là vị thày thông suốt ba kho sách nhà Phật là Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng, không phải là ông thầy có pháp thuật, bày đàn bát quái cúng kiếng quỷ thần, hô gió gọi mưa.
Trước hết, xin tóm tắt nội dung cuộc thỉnh kinh trong thực tế, đã được Tam Tạng pháp sư Huyền Trang ghi lại thành bộ sách “Đại Đường Tây Vực Ký”. Bộ sách này được hòa thượng Thích Như Điển dịch ra Việt ngữ, với lời đề tựa như sau:
“Bộ Đại Đường Tây Vực Ký này sở dĩ chúng tôi dịch trước vì nghĩ rằng chính đây là tấm bản đồ đầy đủ nhất, chi ly nhất mà đương thời từ năm 628 đến năm 645 tại Ấn Độ và Trung Hoa chưa có một người nào viết được một bộ Sử Phật Giáo như thế. Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát, A La Hán.
Số nước mà Ngài đã đi qua là 110, ngày nay chúng ta có thể gọi là những tiểu bang, vì ngày xưa mỗi một vùng có một ông Vua nhỏ, hoặc tù trưởng đứng đầu. Còn ngày nay, Ấn Độ chỉ còn một nước mà thôi. Chung quanh đó có một số nước, ngoài Ấn Độ như Ba Tư, Kasmir, Tân Cương v.v… là những nước lớn ta có thể kể riêng. Nhưng tựu chung chỉ đi bộ và dùng voi ngựa mà vượt qua được những chặng đường dài gần 50 ngàn dặm ấy thì quả thật thế gian nầy chỉ có một không hai.
Nhờ bản đồ hành hương của Ngài qua truyện Đại Đường Tây Vực Ký này mà những học giả, những nhà Khảo Cổ người Âu Châu mới tìm đến Ấn Độ để xác nhận, tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18 và cho đến nay thì bốn Thánh Địa căn bản của đức Phật từ khi Đản Sinh cho đến khi Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch Đại Bát Niết Bàn đã rõ ràng. Bây giờ các nhà Khảo Cổ người Nhật Bản vẫn còn đang tiếp tục tìm kiếm các di tích cũ ngày xưa cách đây trên 2500 năm về trước. Tất cả đều nhờ vào công đức của Ngài Huyền Trang đã vẽ cho chúng ta một tấm bản đồ cách đây 1375 năm. Đây là tấm bản đồ cũ nhất trong tất cả những tấm bản đồ của thế giới hiện nay”.
Trên đây là lời xác nhận của hòa thượng Thích Như Điển về công trình thỉnh kinh của ngài Đường Tam Tạng.
Ngoài ra, trong cuốn “Con Ngựa Già của Đường Tam Tạng”, nhà khảo cổ Vương Hồng Sển cũng viết như sau:
“Thực sự, Tây Du diễn nghĩa là một bộ truyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt. Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh kinh tại Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðường. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau TL) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ “Ðại Ðường Tây Vực Ký”. Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm bề tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đem lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc.
Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình, cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (thế kỷ thứ 7 sau Tây Lịch) mới về đến thành Trường An (Trung Quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về:
– 150 viên xá lợi (tinh cốt của Như Lai).
– 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước
– 3 tượng Phật bằng đàn hương : cao 3 thước rưỡi, 2thước 9 và 2 thước 3.
– 657 bộ kinh
– cùng một số bảo vật khác nữa, phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết.
Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấn độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v… đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo.
Sau sáu năm học tập, thày Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền.
Chẳng những là một nhà sư đạo đức, thày Huyền Trang còn là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhất là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Trúc, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường An, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của những nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của thầy Huyền Trang rất là đích xác.
Từ ngày về Trường An, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã, từ năm 645 đến năm 664, thầy dịch được tất cả 75 bộ kinh, khoảng 1335 quyển từ tiếng Phạn dịch qua Hán tự, bộ Ðạo Đức Kinh và một bản dịch “Ðại Thừa Khởi Tín Luận” từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký” .
Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài thầy Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận đến để tiễn đưa thầy. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này”.
Trên đây là lời xác nhận của học giả Vương Hồng Sển, nhà khảo cổ danh tiếng của miền Nam Việt Nam.
Như thế, câu chuyện ngài Tam Tạng pháp sư Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh đã thật sự xảy ra vào thời đại nhà Đường. Duy chi tiết về công cuộc thỉnh kinh gian khổ thì hoàn toàn khác hẳn với những sự mô tả trong cuốn Tây Du K‎‎ý do Ngô Thừa Ân viết.
Vì vậy, để mọi sự được minh bạch, chúng ta cùng lần giở lại trang sử Phật giáo để tìm ra nội dung chính xác về người thật việc thật, về nhân vật lịch sử Đường Tam Tạng, vị cao tăng đã một mình một ngựa từ kinh đô Tràng An nước Trung Hoa lặn lội vượt qua 50 ngàn dặm đường tới Ấn Độ thỉnh kinh. Sự việc được ghi lại rõ ràng trong cuốn Đại Đường Tây Vực K‎‎ý. Khi đó là vào thế kỷ thứ 7.
Gần một ngàn năm sau, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 16, tác giả Ngô Thừa Ân sáng tác cuốn Tây Du K‎ý dựa vào một sự thật độc nhất là pháp sư Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh, ngoài ra, tất cả các chi tiết thí dụ 3 đệ tử là Tôn hành giả, Bát Giới và Sa Tăng cùng các hành vi huyền bí bất thường của họ đều là do tác giả hư cấu.
Chúng tôi xin lược trích ‎‎ý kiến của thày Thích Nhật Từ, chủ biên thư viện điện tử Đạo Phật Ngày Nay như sau:
“… Theo Tây Du K‎ý‎‎ thì chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm đã bắt giam Tôn dưới chân núi Ngũ Hành ngót 500 năm dài và cũng chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm một lần nữa tạo ra 81 nạn cho 4 thầy trò Ðường Tăng, để rồi dẫn đến kết thúc của tác phẩm chẳng có nghĩa lý gì: ‘’Như Lai là người chủ mưu cuộc hối lộ cái “bát vàng” trước khi giao chân kinh có chữ về Ðông Thổ’’.
Trong truyện Tây Du K‎‎ý, Phật Tổ Như Lai chủ mưu cuộc hối lộ bằng cách “ném đá dấu tay,” ra lệnh cho hai tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà, những vị thánh tăng hàng đầu trong hàng đệ tử Phật, đòi “quà thông cảm” với bốn thầy trò Ðường Tăng. Ðiều đó đã làm cho ba vị đồ đệ cương trực của Ðường Tăng bất bình. Nhưng vì thấy tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà “xuống nước nhỏ” (nhưng thật chất là đánh lừa), cả ba vị đã hỷ xả mà không làm lớn chuyện! Bốn thầy trò tưởng mọi việc êm xuôi, hớn hở đem kinh về. Gần về đến Ðại Ðường thì bổng đâu chim Ðại Bàng của Phật Di-lặc cướp bay lên không, rồi sau đó bỏ xuống đất. Lúc đó, thầy trò Ðường Tăng mới vỡ lẽ ra là kinh mà họ khổ công mang về là “kinh vô tự.”
Cái gút “kinh vô tự và kinh hữu tự” mà tác giả dựng lên không mang dụng ý thiền học như nhiều người đã cố tình lý giải. Thật ra, nó nhằm tạo ra thái độ căm phẫn của độc giả đối với đức Phật và Bồ-tát, thông qua đó, bôi bác, xuyên tạc Phật giáo. Tôi cho rằng Ngô Thừa Ân đã xúc phạm một cách trịch thượng đến đức Phật, các vị Bồ-tát và các vị thánh tăng. Những điều gì mà đức Phật khuyên người ta nên từ bỏ, xa lìa thì Ngô Thừa Ân lại đem những cái đó gán lên đức Phật”.
Trên đây là ‎ ‎ý kiến của thày Thích Nhật Từ, chủ biên thư viện điện tử Đạo Phật Ngày Nay.
Như chúng ta đã biết, đạo Phật xuất hiện trên đời khởi nguồn từ sự giác ngộ thực tại của đức Phật. Ngay sau khi bừng tỉnh, Ngài trực nhận ra rằng : ‘’Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng giác ngộ như Ngài’’. Từ đó cho tới suốt gần 50 năm, đến tận ngày cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn, Ngài đã tận tụy đi khắp nơi để truyền dạy giáo pháp, với nguyện vọng là ‘’Mọi chúng sinh đều được giác ngộ giải thoát, đều thành Phật như Ngài.’’
Tuy nhiên, kinh nghiệm chứng đắc của Ngài là do thực tập, không phải là l‎ý‎ thuyết suông mà đạt được, cho nên nếu ai chưa từng hành trì các pháp môn tu thì sẽ thấy rất khó hiểu.
Vì thế, nhà Phật tạm thời phân sự tu tập thành 2 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là ‘’Không làm điều xấu ác’’ và ‘’Siêng làm đều tốt lành’’. Giai đoạn tu này để chuyển hóa nghiệp xấu thành nghiệp tốt, cùng với các tôn giáo và các nền giáo dục tạo dựng một xã hội lành mạnh, bớt khổ đau, tạo cơ duyên lành cho sự tu giải thoát sau này.
Sau đó, qua giai đoạn thứ nhì là ‘’Tự thanh tịnh tâm ‎‎ý’’. Đây là lúc hành giả buông xả hết tất cả mọi bám víu vào thế gian để tiến tới giác ngộ giải thoát như đức Phật.
Hai giai đoạn tu này thuộc về hai chân l‎‎ý, là đối với chân l‎ý‎ quy ước, có phải trái, hay dở, tốt xấu tương đối với nhau thì ‘’chuyển hóa từ xấu thành tốt’’. Nhưng qua giai đoạn “Tự thanh tịnh tâm ‎ý‎” là giai đoạn vượt lên trên cả sự phân biệt tốt xấu, thánh phàm, hay dở, tiêu dung Tham Sân Si, gọi là cảnh giới Bất Nhị, tạm gọi là Chân L‎‎ý Tuyệt Đối, là giai đoạn tu xuất thế gian, mới chính là bản hoài của đức Phật mong mỏi cho chúng sinh đạt tới.
Như thế, hai giai đoạn tu hành rất rõ ràng. Tuy nhiên, nếu không đi sâu vào giáo l‎‎ý và hành trì của nhà Phật thì người ta có thể hiểu lầm, thí dụ cho rằng đạo Phật là “thế lưỡng phân”, hoặc cho là “đạo Phật thì phải phá chấp”. Truyền bá sự hiểu lầm như vậy sẽ gây hoang mang cho quần chúng độc giả, khiến cho có những người luôn luôn chép miệng phê phán “chấp quá, chấp quá”, cho là phải vứt bỏ những quy luật sống của xã hội thì mới là “sống Thiền”. Đó là một sự lầm lẫn rất đáng tiếc.
Thực tế, hai giai đoạn tu này có những mục tiêu khác nhau và đường lối tu cũng khác nhau, tạm ví như người họa sĩ khi mới tập vẽ cũng phải dùng thước đo để tạo ra những hình ảnh đầu tiên. Nhưng khi đã qua giai đoạn sơ đẳng, họ phải buông thước, hoàn toàn phóng bút theo cảm quan, hai giai đoạn đó không thể lẫn lộn. Hoặc em bé chưa biết đi thì phải theo quy luật, dùng xe tập đi giúp em đứng vững, khi biết đi rồi thì bỏ xe. Chưa biết đi mà bỏ xe thì em bé sẽ té ngã.
Người tu hành trong giai đoạn chuyển xấu thành tốt thì phải nghiêm chỉnh tuân theo giới luật.
Khi đã qua giai đoạn buông xả được mọi chấp trước Tham Sân Si thì mới có thể phá chấp, tự tại trong cảnh giới Bất Nhị. Đó là lúc vượt lên trên mọi quan điểm về Thánh Phàm, là lúc ‘’Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt’’ (chấm dứt nói năng, nơi tâm suy nghĩ ngưng bặt).
Ở trên, chúng ta đã đọc những lời minh xác của các bậc tôn túc về con người và hành trạng của vị cao tăng là Đường Tam Tạng, ai cũng đã thấy rõ con người ấy hoàn toàn không giống chút nào với Đường Tam Tạng trong Tây Du K‎ý. Và trên thực tế, không hề có 3 đệ tử là Tôn hành giả, Bát Giới và Sa Tăng đi cùng, mà là ngài đi thỉnh kinh một mình‎.
Thế nhưng trong Tây Du K‎‎ý, Ngô Thừa Ân đã bôi nhọ hình ảnh vị cao tăng, thí dụ để cho tên đồ đệ hư cấu là con khỉ mắng vị Tam Tạng pháp sư (người thông suốt 3 kho Kinh, Luật và Luận) rằng ‘’ngay đến bài kinh Bát Nhã có 270 chữ nói rằng vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ‎ý‎ mà thầy cũng không nhớ’’, hoặc đưa ra hình ảnh Đường Tam Tạng rất tàn ác, đã dối trá để đánh lừa Tôn hành giả đội chiếc mũ có vòng kim cô rồi sau đó thường nghe lời gièm pha của Trư Bát Giới mà đọc “khẩn cô nhi chú” siết vòng kim cô vào đầu tên đệ tử tận tụy là Tôn hành giả khiến cho hắn đau đớn rên siết lăn lộn kinh hoàng… vân.. vân…
Đến đây, chúng ta đã thấy tất cả câu chuyện Tây Du K‎ý và các nhân vật như Tôn hành giả, Bát Giới, Sa Tăng là hoàn toàn bịa đặt, hoang đường, không có trong thực tế.
Cũng xin thưa rằng câu “Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật” trong Hồng Danh Sám Hối là trích từ kinh Đại Bảo Tích, tôn xưng đức tu hành chân chính, chiến thắng được Tham Sân Si của bản thân, phá trừ được Ngã Chấp, thoát được mọi khổ não trong biển sinh tử, không liên hệ gì tới con khỉ trong câu chuyện bịa đặt Tây Du K‎ý do Ngô Thừa Ân sáng tác.
Nhà Phật không kêu gọi hành giả tu Phật chiến đấu với mọi người hoặc mọi thế lực bên ngoài mà phải luôn luôn thức tỉnh, tự thanh lọc tam độc Tham Sân Si, tự chiến đấu với bản thân để tiêu dung Bản Ngã, hóa giải lòng vị kỷ, sự thù hận và si mê.
Hoàn tất quá trình tu chứng đó là trở thành Đấu Chiến Thắng Phật.
Tuệ Đăng

Bài viết liên quan đến chủ đề:
● ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ – Pháp sư Huyền Trang – Thích Như Điển dịch
● KẾT THÚC CỦA “TÂY DU KÝ” SỰ CHỐNG LẠI ĐẠO ĐỨC – Thích Nhật Từ
● PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN – Tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch PHẦN V

10 vấn đề cấp thiết của Phật giáo dân tộc – Cư sĩ Hồng Quang

12:42 02/04/2011
10 vấn đề cấp thiết của Phật giáo dân tộc
(TG&DT) – Thật là một hân hạnh lớn lao cho chúng tôi hôm nay được về tham dự Đại hội kỳ V của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Từ ngàn dặm xa xôi mà được về thăm quê hương đã là một điều hạnh phúc
VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG ĐỂ SUY NGHĨ VỀ

MƯỜI VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni,

Kính thưa quí vị Đại biểu và Quí khách

Thật là một hân hạnh lớn lao cho chúng tôi hôm nay được về tham dự Đại hội kỳ V của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Thật vậy, từ ngàn dặm xa xôi mà được về thăm quê hương đã là một điều hạnh phúc, lại được phép trình bày một số thao thức của một người con Phật trước những người đồng đạo mà cũng là đồng bào cùng chung một ước mơ, thì thật là một cơ duyên hiếm có.

Do đó, chúng tôi xin mạo muội góp ý với Đại hội về hai chủ đề: Phần thứ nhất sẽ đề cập đếnvài nét đặc thù trong quá trình phát triển Phật giáo Tây phương, đặc biệt là tại Mỹ, để nhận diện những yếu tố nào đã làm cho Phật-Giáo nở rộ, cả phẩm lẫn lượng, trên các mảnh đất Kitô giáo và những thành trì của nền văn minh vật chất, duy lý và duy lợi nầy. Phần thứ hai, chúng tôi sẽ xin gợi ý về mười vấn đề vừa cụ thể vừa cấp thiết, vừa cho bây giờ vừa cho tương lai, mà tôi nghĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần đặc biệt quan tâm.

Dĩ nhiên ý kiến của chúng tôi thì chủ quan và còn nhiều giới hạn, nhưng chắc chắn chân thành và thiện chí, nên có điều gì sơ suất và khó nghe, xin Đại Hội niệm tình tha thứ.

PHẦN MỘT VÀI NÉT ĐẶC THÙ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO TẠI TÂY PHƯƠNG

Như chúng ta đều biết, từ quê hương của đức Phật, giáo lý của Ngài đã tỏa ra bốn hướng chính. Trong cuốn The Buddhist Handbook: The Complete Guide to Buddhist Schools, Teaching, Practice and History, 1999, USA, John Snelling, một nhà sử-học Phật-giáo Mỹ, đã dùng hai tiêu chuẩn không-thời gian và sự hình thành các tông phái để xác định quá trình phát triển Phật-Giáo trên toàn thế giới, đã mô tả bốn hướng chính đó như sau:

– Về phương Nam, Phật Pháp thấm sâu vào Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Indonesia.

– Về phương Bắc, Phật Pháp xuyên rặng Hy Mã Lạp Sơn qua Tây Tạng, Mông Cổ và Nga.

– Về phương Đông, Phật Pháp được truyền vào Việt-Nam,Trung Quốc rồi tỏa hai nhánh lên Đại Hàn, Nhật Bản và Đài Loan.

– Về phương Tây, theo con đường Tơ lụa, Phật-Pháp được truyền vào Trung Đông, các nước ven Địa Trung-Hải, và từ sau Đệ-nhất Thế-chiến, thì bắt đầu bắt rễ tại Âu-Châu.

Tuy nhiên, phải đợi đến cuối thế kỷ thứ 19, khi Phật -Giáo theo hai ngã đường tràn vào Mỹ thì quá trình phát triển của đạo Phật mới có những chuyển biến ngoạn mục và sâu sắc. Đó là khi từ lục địa châu Âu, những hiệp hội Phật-Giáo năng động như Buddhist Society of Great Britan and Ireland, Old Buddhist Community, Buddhist Publication Society, … bắt đầu phát hành những ấn phẩm diễn giảng kinh sách Phật-Giáo xuyên Đại Tây dương để xâm nhập vào miền Đông nước Mỹ. Và từ châu Á, những đợt sóng di dân từ Trung Quốc và Nhật Bản cập vào miền Tây nước Mỹ để, theo đúng truyền thống Đông Phương, lấy chính cuộc sống của mình làm chứng thực lời dạy của đức Phật, thì dân tộc Mỹ mới khám phá ra và hân hoan chào mừng Phật Pháp tuyệt vời của đấng Từ Phụ.

Tại Anh-quốc ngày nay chỉ còn 7.5 % đi lễ nhà thờ, nhưng tại Mỹ người Công-giáo và Tin-lành chiếm 56%, trong đó phần lớn bao gồm các sắc dân Châu-Á, Châu-Phi, Châu Mỹ La-tinh, giới lao-động và thợ thuyền. Tuy vậy, sau Đệ Nhị Thế Chiến và cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa các Đại-cường, thì những tác phẩm viết về tôn giáo Đông-Phương như cuốn Anh Sáng Á-châu Về Cuộc Đời Và Lời Dạy Của Đức Phật”(The Light of Asia on the Light and Teaching of Buddha) của đại thi sĩ Edwin Arnold, cuốn Khoa Học Tối Thượng Của Đức Phật (Supreme Science of the Buddha) của Egerton C. Baptist, cuốn Đạo Vật Lý (The Tao of Physics) của khoa-học gia Fritjof Capra, bộ Thiền-Luận của Suzuki, v. v. đã thấm vào tim óc của giới trí thức Tây-phương.

Phong trào nghiên cứu về tôn giáo và tín ngưỡng Á-châu nở rộ thành những đợt sóng người đến với đạo Phật, lan tràn khắp thế giới, đặc biệt là tại các nước tiên tiến như Đức, Anh, Pháp và Hoa-kỳ. Từ giới văn nghệ sĩ đến quân nhân, từ học đường đến kinh doanh. Số trí thức người Mỹ theo Phật-Giáo trong thập niên 1980 là 7 triệu, và năm 2000 là 10 triệu. Trong số những trí thức nỗi tiếng trở thành Phật-Tử có ứng cử viên tổng thống Jerry Brown, ông cũng từng là Thống-Đốc bang California, tài tử nỗi tiếng Richard Gere, Steve Seagal, danh ca Tina Turner, nhà văn Jack Kerovac, thi sĩ Allen Ginsberg. Ngay tại bộ Quốc-phòng cũng có Câu-lạc Bộ Thiền (The Pentagon Meditation Club) được thành lập từ 1976 qui tụ nhiều sĩ quan cao cấp và tướng lãnh. Theo báo Tricycle: The Buddhist Review, số mùa hè năm 1997, người sáng lập câu lạc bộ nầy là ông Ed. Winchester cho biết: câu lạc bộ có 16 vị tướng và đô-đốc hải-quân là những thiền sinh (The fact is at one point I think there were about sixteen generals and admirals who were meditators).

Tại Mỹ, năm 1966 chỉ có 3 đại-học mở phân khoa Phật Học, nhưng sau 30 năm, 1996, có đến 145 đại học, và ngày nay thì có nhiều hơn nữa. Môn sử Phật-Giáo khái quát cũng được giảng dạy trong nhiều trường Trung và Tiểu-học. Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ 20, tại Mỹ, có trên 1.500 cơ sở hoằng-pháp. Quần thể tu viện The Odiyan Monastery được xây cất trên một vùng đất rộng hơn một nghìn mẫu tây tại bang California, được xem là cơ sở vĩ đại nhất của Phật-Giáo Mỹ trong thập niên qua. Trong cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the West), xuất bản năm 1994, tác giả Stephen Batchelor viết: Ngày nay Phật Giáo được coi như là một tôn giáo phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tâm linh có ảnh hưởng nhiều nhất ở Tây Phương (Buddhism is said to be the fastest growing religion and one of the most influential spiritual movement in the West).

Tạp chí Time là một trong những tuần báo giá trị nhất của Mỹ, số ra ngày 13.10.1997, trang bìa đăng hình tài tử điện ảnh chính, Brad Pitt, đóng phim Bảy năm ở Tây Tạng”(Seven years in Tibet) với hàng tít lớn: Sự hấp dẫn của Phật-Giáo đối với Mỹ” (America’s Fascination With Buddhism). Số báo nầy có viết một bài dài 11 trang về sự phát triển Phật-Giáo tại Mỹ. Trong nhật báo Chicago Tribune, số ra ngày 16. 6. 2000, ký giả Karen Mellen tường trình về chủ đề Người Tây-phương đến với tín ngưỡng Á-châu nhiều hơn”(More Westeners are Drawn to Asian Faith), trong đó có đoạn tác giả đã mô tả: Không cần phải tìm cách thu phục hay tích cực kiếm thêm tín đồ, Phật-Giáo đang nở rộ tại tiểu bang Illinois và các tiểu bang lân cận. Trong 5 năm qua, số tín đồ Phật-Giáo tăng thêm 25 %, và mỗi năm có thêm 4 hay 5 chùa mới (Without proselytizing or actively seeking members. Buddhism is flourishing in Illinois and nearby states. Over the last five years the number of Buddhists has risen 25 percent, and four or five new temples open each year). Những buổi thuyết pháp của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma ngày nay không còn được tổ chức trong các hội trường nhỏ hẹp từ 3 đến 5 ngàn người, mà mỗi lần thuyết pháp phải được tổ chức ở các sân vận động thể thao để có thể chứa được cả trăm ngàn thính giả.

Sở dĩ người Tây-phương, nhất là người Mỹ, ngày càng theo Phật-Giáo nhiều, trước hết vì họ bị khủng khoảng niềm tin nơi những tôn giáo lâu đời của xứ sở họ. Thứ hai là với đầu óc thực nghiệm sẵn có trong nền giáo dục duy lý thực dụng và khoa học, họ khám phá thấy Phật Giáo là tôn-giáo của từ bi hỷ xả, tôn-giáo của trí-tuệ và khoa-học, một tôn giáo giải đáp được những băn khoăn thao thức của họ về con người, vũ trụ và cuộc sống trong một xã hội đầy duy lý, máy móc, bạo động và bấn loạn tâm linh mà họ phải đối diện hàng ngày. Vì thế, thiên tài khoa học Albert Einstein, người Mỹ gốc Do-thái, sinh tại Đức, được giải thưởng Nobel vật lý học năm 1921, phát biểu về Phật-Giáo như sau:

“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo hoàn vũ. Tôn giáo này phải vươn lên khỏi một Thượng Đế cá thể và tránh các giáo điều và một nền Thần Học. Tôn giáo này phải bao gồm cả thiên nhiên giới và tâm linh giới, và phải dựa vào một ý thức tín ngưỡng phát xuất từ kinh nghiệm của cả vật chất lẫn tinh thần, và dựa trên một thế hợp nhất có ý nghĩa. Phật Giáo chính là tôn giáo đáp ứng được với những mô tả vừa kể.

“Nếu có một tôn giáo nào ứng phó được với các nhu cầu của nền khoa học hiện đại, thì đó chính là Phật Giáo. Phật Giáo không cần phải tu chính để chối bỏ những quan điểm của mình mà theo khoa học, vì Phật Giáo vừa bao gồm khoa học vừa vượt xa quá khoa học nữa”.”

(The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend a personal god and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things, natural and spiritual and a meaningful unity. Buddhism answers this description…

If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to surrender its views to science, because it embraces science as well as goes beyond science).

Kính thưa quý vị,

Dưới con mắt của thiên tài vật lý gia Albert Einstein, Phật Giáo quả thật là một bảo vật vô giá, vượt thời gian và không gian. Nhưng theo thiển ý của chúng tôi thì Phật Giáo Việt-Nam chúng ta chưa nỗ lực đúng mức để truyền trì món bảo vật ấy. Nói một cách mộc mạc, Phật-Giáo có một món hàng vô giá nhưng các ban tiếp thị đã thiếu khả năng để bán món hàng ấy.

Nói vậy không có nghĩa là chúng tôi không thấy được bao nhiêu tâm lực, bao nhiêu hy sinh của chư tôn đức và hàng Phật Tử tại gia đã và đang kiên trì hoạt động Phật sự để cho mạng mạch Phật Giáo luôn luôn là một dòng suối tươi mát, là một đại dương cam lồ tưới tẩm dân tộc qua nhiều thế hệ thăng trầm biến đổi, nhất là trong thời gian nước nhà gặp biết bao khó khăn sau những năm dài chinh chiến. Phật tử Việt Nam và Phật tử thế giới luôn luôn ghi nhớ công đức hành thiện đó.

Lịch sử đã chứng minh thành qui luật rằng lúc nào Phật Giáo hưng thịnh thì quốc gia phú cường, lúc nào Phật Giáo trì trệ thì dân tộc cũng nguy khốn. Vì thế, học giả Phan Khôi đã rất đúng khi nhận định: “…thuở nhà Lý nhà Trần đạo Phật tràn ngập cả nước. Chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như thời Lê Trung Hưng hay Nguyễn Thống Nhất là hai thời đại Nho học thịnh hành. Trái lại nhà Lý nhà Trần mạnh lắm… mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt”. (Nguyễn Lang, Phật-giáo sử luận, tập 3, Lá-bối, Paris 1985, tr.29).

Lý Trần là thời kỳ đạo Phật thịnh, kéo theo thế hưng thịnh của quốc gia. Quân Nguyên Mông chiến thắng cả thiên hạ. Nhưng lúc sang chiếm Việt Nam, đạo quân bách chiến bách thắng nầy không những đã thua trận một lần mà thua đến ba lần. Nước nhà có được những nét vàng son ấy là nhờ tinh thần TỪ BI, TRÍ TUỆ và DŨNG MÃNH được vua quan và dân chúng áp dụng một cách nhuần nhuyễn tích cực vào trong tất cả các hành động và cuộc sống hằng ngày. Vua Trần Nhân Tông xuất gia lìa bỏ ngai vàng như bỏ đôi dép rách là một bài học sống động và vô giá cho tất cả chúng ta. Sự hi hiến phi thường nầy cũng giống như hơn 2500 năm trước, Thái Tử Tất đạt Đa bỏ ngai vàng điện ngọc cao sang để tìm phương cách giải khổ đem vui cho con người.

Chỉ hơn mười năm sau khi nhân loại thoát khỏi ác mộng Chiến Tranh Lạnh thì thế giới ngày nay đang bước vào một khúc quanh lịch sử mới với viễn ảnh của một cuộc chiến không phải giữa Ý Thức Hệ Độc Thần với Ý Thức Hệ Vô Thần như trước, nhưng là giữa Ý Thức Hệ Độc Thần Da Trắng với Ý Thức Hệ Độc Thần Da Nâu, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tin một một Thánh Thư, cùng phát xuất từ một suối nguồn tín ngưỡng.

Cuộc chiến hôm nay là một cuộc chiến giữa ‘người uy hiếp và người bị uy hiếp’, chứ không hẳn là ‘giữa kẻ ăn không hết và người mần không ra’. Thực trạng hôm nay, một lần nữa, làm chứng cho chân lý đơn giản của Phật Giáo đó là đem hận thù chống hận thù thì cũng giống như đem dầu xăng mà chữa lửa. Chỉ có tình thương, chỉ có từ bi mới xóa bỏ được hận thù và nghèo đói.

Thế giới đang lên cơn sốt trầm trọng, nhất là đối với những dân tộc đau thương đói khổ dài ngày. Điều nguy hại là đôi lúc một vài tổ chức phản động, độc tôn, quá khích đã và đang lăm le lợi dụng tình trạng thiếu thốn đói khổ và lòng ưa muốn ăn no mặc ấm để gieo rắc những mầm phân hóa, bất ổn, sa đọa, phi dân tộc, phản cách mạng dưới chiêu bài Nhân Quyền, Tự Do Tôn giáo, Hiện Đại, Tiên Tiến.

Không có quyền nào cao quý bằng quyền tự chủ để độc lập và tự cường để tồn tại. Nhân quyền là quyền mà mỗi người quyết định lấy số phận của mình nhưng phải đặt nó trong mối tương quan hòa ái với dân tộc và nhân loại. Không có tự do nào bằng tự do vượt ra khỏi sức ép của ngoại nhân. Không có cái gì hiện đại bằng người Việt Nam vào thế kỷ 21 phải tự mình vững bước hai chân trên các ngành khoa học kỷ thuật để phú cường, và về mặt tâm linh thì dựa vào cái triết lý vượt lên trên khoa học để làm ngọn đuốc soi đường cho các phương châm hành động.

Không có cái gì tiên tiến bằng người Việt Nam hôm nay có thể nhìn vào đồng loại năm châu để nói rằng chúng tôi đã dứt được quá khứ nhục nhả vì bị trị. Chúng tôi tự hào một cách có thực là dân tộc chúng tôi đã thắng 3 cường quốc vĩ đại của thế giới để dành lại độc lập cho con cháu Tiên Rồng và tương lai đang ở trong tay chúng tôi. Chúng tôi đang đứng hàng thứ nhì trong việc xuất cảng gạo, hàng thứ ba xuất cảng cao-su. Vài vùng trước đây đồng khô cỏ cháy, nay lúa xanh ngắt một mầu nhờ hệ thống thủy lợi thuận tiện. Và điện thoại, tivi, fax, máy vi tính, hệ thống internet đã hiện diện tại nhiều nơi ở vùng xa, vùng sâu. Nhưng quan trọng hơn cả, Việt-nam là một quốc gia ổn định và an ninh nhất vùng Đông-Nam Á, và dân tộc chúng ta hôm nay có thể hãnh diện và tự hào về những thành quả vàng son vừa kể. Vấn đề chỉ là gìn giữ, phát triển và noi gương các bậc tiền bối nhiều hơn nữa trong quốc sách Đói cho sạch rách cho thơm. Nạn tham nhũng là một điều nhục quốc thể và làm cho thế giới khinh rẻ một dân tộc vốn đã có những nét vàng son vừa kể, cần phải được chấm dứt. Và đây chính là lúc Phật giáo Việt Nam phải nỗ lực nhiều hơn để gánh phần trách nhiệm của mình.

Đạo Phật là đạo của từ bi, đạo của tri túc tiện túc, đạo của những kẻ trượng phu Thà làm quỷ nước Nam …, những kẻ sống chết với nguyên tắc “Tiên thiên hạ chi ưu hậu thiên hạ chi lạc”, những kẻ vừa thấy được cái tốt của người để bắt chước, vừa biết rõ cái xấu của mình để sửa sai. Đạo Phật cũng là đạo “Thương người như thể thương thân”, Áo rách phải giữ lấy lề, chứ không phải là đạo của sống chết mặc bây, hoặc đói mà muốn nhận loong gạo hoặc lảnh ổ bánh mì thì phải nhận phép rữa tẩy.

Quyển Thánh Thư và cây chữ thập từng là lá cờ tiên phong cho những đạo quân thực dân xâm chiếm bóc lột và diệt chủng ở Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ. Bi kịch lịch sử đó đang được một số người lăm le tái diễn ở Trung Đông. Bi kịch đó đã và đang có người âm mưu tái diễn ở miền cao nguyên và sơn cước Việt Nam hiện nay.

Hơn bao giờ hết, người Phật tử, trong cũng như ngoài nước, có lẽ nên dựa vào nguyên tắc khế lý, khế cơ và khế thời như lời Phật dạy để áp dụng một cách uyển chuyển và linh động vào tình trạng bấn loạn của thế giới và vào hoàn cảnh của quốc gia đang trên đà phát triển hiện nay, để kiện toàn đường lối sinh hoạt Phật sự trong mục tiêu góp phần làm cho dân tộc an lạc, quốc gia giàu mạnh và thế giới hòa bình.

PHẦN HAI MƯỜI VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Trước những chuyển đổi sâu rộng của thời đại trên thế giới cũng như đặc biệt trên quê hương, và quan sát những kinh nghiệm thành công của Phật Giáo ở các nước Tây-phương, chúng tôi ý thức được rằng Việt Nam có những vấn đề đặc thù của Việt Nam, và Giáo Hội ta có những vấn nạn của riêng chúng ta. Do đó, chúng tôi chỉ xin đề cập đến những vấn đề thật cấp bách không thể nào bỏ qua được, lại có tính phổ quát mà Giáo Hội nước nào cũng phải kinh qua, và có tính khả thi mà Giáo hội Việt Nam không đối trị bây giờ thì cũng phải đối diện trong một tương lai gần.

Mười chủ điểm mà chúng tôi đặc biệt thao thức thì có quan hệ hữu cơ và nhân quả đến:

– Hai vấn đề nhân sự của Giáo hội vì con người bao giờ cũng là trục vận hành của mọi tổ chức

– Bốn vấn đề tổ chức vì đó là công cụ vận hành và phương tiện thiện thừa của Giáo hội

– Hai vấn đề giáo dục đào tạo vì đó là đội ngũ kế thừa của mọi nỗ lực phát triển

– Hai vấn đề văn hóa vì đó là thành tố bất khả phân ly giữa đạo và đời.

Dĩ nhiên, những đề nghị của chúng tôi sẽ không giải quyết được tận gốc những khó khăn to lớn mà chúng ta đang nỗ lực vượt qua, lại càng chưa chắc đã nằm trong ưu tiên hàng đầu mà Giáo hội đang quan tâm, tuy nhiên chúng quả thật đang là những hòn đá tảng, sừng sững nằm chắn lối trên con đường hoằng dương Phật Pháp. Do đó mà chúng tôi xin trình bày với tất cả khiêm cung nhưng cũng rất triệt để, đó là:

1. Trẻ trung nhân sự:

Cơ thể con người là một vi trần của vạn hữu, biến thái theo chu kỳ thành trụ hoại không. Vì thế, ngày nay hầu như quốc gia nào trên thế giới cũng định tuổi về hưu của công tư chức là 60 đến 65 tuổi, cái tuổi mà sinh lực như một ngọn đèn dầu đang cạn, cái tuổi mà trí tuệ cũng không còn minh mẫn và nhạy bén như buổi thiếu thời. Tình trạng lão hoá nầy không miễn trừ cho bất cứ một ai, do đó, những vị cao niên cần được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau bao năm hi hiến cuộc đời của mình cho đại sự. Hơn nữa phục vụ Giáo Hội là một sự hy sinh chứ không phải là một công chức hoặc tư chức có lương bổng để bồi dưỡng, nên lại càng phải đòi hỏi một sự tĩnh dưỡng nhiều hơn.

Quy luật tâm sinh lý nầy mang tính phổ quát, không phải chỉ đúng cho giai tầng lãnh đạo, mà ở mọi vị trí, mọi nhiệm vụ và mọi lãnh vực, một khi đã tuổi cao trí kém thì không những sẽ làm trì trệ tổ chức mà còn là những phản động lực cản đường phát triển của định chế mình phục vụ. Vì thế, tất cả nhân sự hành chánh của Giáo Hội từ trung-ương đến địa phương nên được chọn lựa trên tiêu chuẩn đức, tài, khoẻ và không quá 70 tuổi. Những vị đạo cao đức trọng trên 70 tuổi nên được cung thỉnh vào Hội đồng Chứng minh để làm biểu tượng đạo đức và trang nghiêm cho Giáo Hội, không nên đòi hỏi quí ngài phải nhọc nhằn lận đận với những công việc nặng nhọc hằng ngày của Hội Đồng Trị Sự hay Hội Đồng Điều Hành, mà nhiều lúc và nhiều nơi còn ép quí ngài phải kiêm nhiệm đến 3 hoặc 4 chức.

Một điểm khác về nhân sự là phẩm hơi thấp nhưng lượng cao. Nhiều tỉnh xa những trung tâm thị tứ thì thiếu Tăng Ni nhất là các vùng quê và miền cao nguyên, nhưng tại thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận thì hầu như Tăng Ni bị lạm phát, phẩm hình như còn thấp nhưng lượng quá cao là một tai hại cho tiền đồ Phật-giáo.

Một minh chứng điển hình là hiện nay, tại Hoa Kỳ, hàng giáo sĩ từ 200 năm qua vốn là biểu tượng của đạo đức xã hội, nhưng từ hơn nửa năm nay, hình ảnh đó đã hoàn toàn sụp đổ và sẽ kéo theo sự suy tàn của các giáo hội Công giáo La Mã khi báo chí, đài truyền thanh truyền hình phát hiện và phổ biến rộng rãi những vụ linh mục, giám mục cưỡng dâm trẻ em, mà có kẻ lại hiếp dâm trên cả trăm trẻ em trong nhiều năm, rồi họ lại được chính các giáo hội đó bảo bọc che đậy. Hàng tỉ Mỹ-kim đã và đang chi phí để bồi thường cho các nạn nhân, nhưng quan trọng hơn, niềm kính trọng và tin tưởng vào các Giáo Hội đã hoàn toàn bị lung lay và có nguy cơ sụp đổ trong lòng các tín đồ.

Giáo Hội và quí vị Trú-trì dày công đào luyện cho Tăng Ni và đệ tử một mớ hành trang để lên đường hành đạo, thì cũng nên tạo dư luận và tạo một số hành trang cần thiết để cho đệ tử nào muốn hoàn tục nếu cơ duyên chưa trọn, còn hơn là chấp chứa một số sư tử trùng mà thân còn ở trong nhưng tâm thì đã rong ruổi bên ngoài từ lâu rồi.

Tình trạng phẩm thấp lượng cao trong một số ít Tăng Ni sinh trẻ hiện nay, ở một vài vùng tại Việt Nam, là một điều đáng ngại mà Giáo Hội cần có biện pháp ngay từ bây giờ. Hành động phá giới phạm trai của một vài Tăng Ni trẻ, nếu có, là những ngọn lửa đốt cháy niềm tin của hàng triệu tín đồ.

2. Cái ghế một chân:

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa thế giới, điều hành một tổ chức trở nên cực kỳ phức tạp. Hơn thế nữa, cuộc cách mạng thông tin đã nâng mọi hoạt động, mọi sự cố lên trình độ đa khoa (interdisciplinary) và đa tầng (multilayer), khiến cho không một người nào hay một nhóm nhỏ nào có thể quản lý một tổ chức mà không huy động nhiều nguồn nhân lực và tri thức khác nhau.

Giáo Hội Phật Giáo lại càng cần sự huy động tổng hợp đó vì tính chất nhập thế rốt ráo và vì khả năng tiếp cận đầy tính dung hóa của đạo Phật. Đội ngũ đông đảo các cư sĩ, với chức năng hộ Pháp, và với khả năng và cơ hội được thật sự dùi mài trong cuộc sống thật, sẽ là nhân tố quan trọng phải được huy động tham gia vào việc phát triển đạo Phật.

Tại các nước Tây-phương, vốn là thành trì của chủ nghĩa vật chất và căn cứ địa của các tôn giáo độc thần, nhưng cuối cùng cũng đã phải mở cữa trân trọng đón chào đạo Phật như một viên thuốc thần tiên vô giá. Nhưng quá trình đón chào đó không phải tự nhiên mà có, mà chủ yếu là nhờ một đội ngũ cư sĩ biết vận dụng đạo Phật vào cuộc sống và hình thành một hệ thống tổ chức đặc thù theo lối hiện đại cho người Tây-phương. Không những họ nghiên cứu Kinh, thuyết giảng Luật, phổ biến Luận, mà họ còn cụ thể tham gia vào công tác định hướng chính sách, tổ chức các khóa tu Bát Quan Trai, xây cất chùa, quản lý tài chánh, đối thoại về các chủ đề thần học với các tôn giáo khác, v.v…

Ngài Suzuki là một nhân vật Nhật Bản nỗi tiếng đã đem đạo Phật đến cho người Tây-phương trong nhiều thập niên qua là một cư-sĩ có gia đình. Ngài Tarthang Tulku, một vị sư Tây Tạng có vợ là một người Ai-Cập lai Pháp, xây dựng một cảnh chùa trị giá trên 100 triệu Mỹ-kim tại miền bắc California, Hoa-kỳ, mà nguồn tịnh tài có được, một phần nhỏ do việc phát hành sách mà ngài viết, số còn lại và nhân công xây cất là do cư sĩ Phật-tử Mỹ đóng góp.

Nhưng đối với Phật Giáo Việt-Nam qua nhiều năm gần đây, trong cũng như ngoài nước, chúng ta có một cấu trúc nhân sự Giáo Hội rất lạ, rất thiếu quân bằng. Bốn chúng đệ tử Phật là Tăng, Ni, Nam cư-sĩ và Nữ cư-sĩ, nhưng nay chỉ còn hơn một chúng trong hầu hết các tổ chức lớn nhỏ của Giáo Hội. Thật vậy, cứ nhìn vào nhân sự của Giáo-Hội thì sẽ thấy, tất cả các chức vụ hầu như do chư tăng phụ trách cả. Lác đác chỉ thấy vài vị Ni và vài cư sĩ với những phần vụ phụ thuộc hoặc trang trí mà thôi. Theo thống kê của nhà nước về phân bố giới tính, thì số lượng nữ giới của dân số nước ta tăng nhanh hơn nam giới. Nhưng nhìn vào nhân sự điều hành của Giáo Hội thì Ni giới chỉ có một vai trò rất hạn hẹp và quá thiểu số so với tăng giới. Còn thành phần cư sĩ, họ ít được Giáo-Hội quan tâm, ngoại trừ các chương trình cần đóng góp tịnh tài. Một số khác thì chỉ được dùng vào việc làm hàng rào danh dự, nghênh tiếp chư tôn đức và sai vặt. Có lẽ đây là một trong số những lý do chính mà phần lớn hàng trí thức cư-sĩ ít đến chùa và họ đã phải tổ chức những đạo tràng riêng từng nhóm để tu học.

Qua những kinh nghiệm và thực trạng nêu trên, chúng ta thấy nếu Phật Giáo Việt Nam muốn phát triển thì các tổ chức giáo-hội cần phải có 4 chúng như cái ghế có 4 chân. Đối với hai chúng Phật-tử tại gia, cần dành một chức năng và một chỗ đứng cho cư sĩ trong cả ba vai trò hoạch định chính sách, trợ lý tổ chức và điều hành nhiều Phật sự thì mới tạo thêm được những thuận lợi cho việc hoằng dương Phật-Pháp. Ngược lại, cái ghế chỉ còn một hoặc hai chân đứng còn chưa vững nói gì đến phát triển.

Ngoài ra, trong hàng Phật tử tại gia chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến một thành phần trẻ trung khác đó là Gia Đình Phật Tử chủ yếu vì hai lý do chính:

a. Tre già măng mọc: Đây là thành phần kế thừa và tiếp nối các công trình mà thế hệ phụ huynh để lại. Họ sẽ không thể gánh vác mà thậm chí còn có thể phá hoại những di sản quí báu của tiền nhân nếu không được hướng dẫn và đào tạo ngay từ lúc còn thơ những giá trị đạo đức và những kiến thức Phật-Học. Do đó Giáo Hội nên trang bị cho thành phần con cháu chúng ta một hành trang đạo lực và trí lực để bước đi trên con đường phụng sự Giáo-Hội, phụng sự quốc gia, phụng sự nhân loại và phụng sự chúng sanh tức là phụng sự chư Phật.

b. Tránh phạm pháp và trở thành người tốt: Nếu những câu châm ngôn của Gia Đình Phật Tử như “Em tưởng nhớ Phật. Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em. Em thương người và vật” và “ Phật-tử qui-y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện, Phật tử mở rộng lòng thương và tôn trong sự sống, Phật-tử trau dồi trí tuệ và tôn trọng sự thật, Phật-tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm..” được thật sự thể hiện thành hành động cụ thể trong cuộc sống đời thường thì cá nhân các em, gia đình của các em, trường học của các em, Giáo Hội và dân tộc của chúng ta sẽ an lành biết mấy. Một đoàn thể với chủ trương đào luyện những con người trẻ như thế tại sao chúng ta lại thiếu quan tâm. Về phương diện tâm lý, những điều mà con người học được từ lúc còn nhỏ sẽ ở lại trong tâm họ lâu hơn là những điều học được lúc đã trưởng thành. Thống kê cho thấy những sa ngã của tuổi trẻ và những vụ tự tử thường xẩy ra vào ngày Chủ-nhật hơn là những ngày khác trong tuần. Do đó ngày Chủ-nhật con em chúng ta có môi trường không những để rèn luyện bản lĩnh mà còn để vui đùa và học hỏi thêm các điều thiện mà bậc phụ huynh vì sinh kế nên thiếu chu toàn.

Gia Đình Phật Tử đúng là nơi, phải là nơi, đáng tin cậy nhất để gởi con em đến. Nhưng rất tiếc, trong nhiều năm qua, vì một số hệ lụy của các vị tôn trưởng, vì thời cuộc và tâm tình chưa thông thoáng, nên đã có một số Gia Đình Phật Tử không thể sinh hoạt bình thường được. Một vài nơi họ bị đuổi ra khỏi chùa và hành lễ ngoài sân trong cảnh trời mưa lạnh như có lần tôi thấy tại một chùa ở Đà-lạt. Một số khác thì không được đến sinh hoạt tại chùa vì có người gán cho họ là có liên hệ với người nước ngoài. Tại hải ngoại, một vài Gia Đình Phật Tử không sinh hoạt dưới nhãn hiệu của Giáo-Hội nầy hay Giáo-Hội khác thì họ bị gán cho là “thân Cọng”.

Kính thưa quí vị, những đứa con ngoan, những người dân tốt, sẵn sàng phụng sự cha mẹ và noi gương các bậc tiền bối để kế thừa sự nghiệp của chúng ta và họ sẽ hy sinh tánh mạng lúc nước nhà nguy biến để đuổi ngoại xâm như đuổi vịt chính là con em của chúng ta hôm nay. Họ sẽ là thế hệ tiếp nối công trình mà chúng ta và tổ tiên đã dày công xây dựng. Xin tất cả chúng ta và mỗi một tự viện hãy mở vòng tay chào đón và giáo dưỡng Gia Đình Phật Tử để tòa nhà Phật Giáo không những có đủ 4 chân mà còn là 4 chân khoẻ mạnh, vẹn toàn và có tiềm năng tăng trưởng.

3. Phật Vô Nam Bắc:

Lục tổ Huệ Năng thì dạy “Phật Vô Nam Bắc”, nhưng trong nhiều năm qua chúng ta hình như chỉ chú trọng đến những Phật tử tại thị thành mà lãng quên những người ở thôn quê, chỉ chú trọng đến những Phật tử tại miền xuôi mà lãng quên người mạn ngược, nhất là các vùng dân tộc thiểu số. Đồng bào sống ở miền Rẻo cao là một thành phần trong đại khối dân tộc. Nhưng thực dân Pháp, sau 1884, đã chia Việt Nam thành nhiều miền: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine) và miền cao nguyên như Kông-tum, Plei-ku, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Di-linh, Đà Lạt họ đặt tên là Hoàng Triều Cương Thổ. Còn vùng giữa biên giới Việt-nam và Trung-hoa, Giám-mục Puginier và Hội Truyền-Giáo cũng thành lập một khu vực tự trị khác để giúp chính phủ thực dân dễ biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ ở Viễn-đông. Chính sách thâm độc nầy là nhằm thiết lập nhiều quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn, chặt đứt tình đồng bào và dứt nghĩa tình đồng hương. Họ tạo cho dân chúng trong các vùng nầy có óc địa phương cát cứ chống đối lẫn nhau, đòi độc lập tự trị và theo ngoại bang.

Trong các cuốn sách viết về Linh-mục A. de Rhodes, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký và Linh-mục Trần Lục, không những chúng tôi đã tiên đoán và báo động tình trạng nêu trên mà còn nói rõ 6 kế hoạch mà tôn giáo Tây Phương áp dụng tại đất nước ta. Chính phủ và nhân dân toàn nước đã có phản ứng, riêng Phật Giáo cũng phải tiến hành những chương trình huấn luyện để phân phối một số Tăng Ni thông thạo tiếng Trung-Hoa và tiếng các sắc dân khác để thuyết phục anh em đồng bào chúng ta biết thờ cúng tổ tiên, đừng bỏ tôn giáo dân tộc hay tín ngưỡng vật linh truyền thống của họ, và có trí tuệ sáng suốt để thấy được âm mưu xúi dục bạo loạn. Chương trình nầy trước kia được cố Hòa Thượng Thích Thiện Châu và Hòa Thượng Thích Thiện Siêu tích cực quan tâm. Ngay từ những năm trước 1975, Hòa Thượng Thiện Siêu đã từng phái những đệ tử của ngài lên truyền đạo trên đó.

Những Phật tử yêu nước đã gọi Phật là Phật Tổ Hồng Bàng Thị cũng chỉ vì mối liên hệ khắng-khít giữa đạo Phật và Nước nhà. Đạo Phật yếu thì tổ quốc cũng lâm nguy, và Tổ quốc nghiêng ngửa thì đạo Phật cũng ngửa nghiêng theo. Bài học lịch sử gần gũi nhất là thời nhà Nguyễn, Nho giáo thịnh hành rồi kỳ thị Phật Giáo, thêm vào đó là âm mưu diệt Phật giáo của các giáo sĩ Tây phương, (nhất là Giám Mục Bá Đa Lộc, cố vấn đặc biệt và là cánh tay phải của vua Gia-Long) nên Việt Nam đã bị Tây Phương xâm chiếm và bị đô hộ gần cả trăm năm dưới bóng thập ác và lá cờ Tam-tài.

Tại Ấn Độ, thời vua A-dục, Phật Giáo được thịnh hành thì quốc gia Ấn Độ cũng trải qua một triều đại huy hoàng chưa từng có trong lịch sử Aán. Nhưng các triều đại tiếp theo, Phật Giáo suy vi vì không được các triều vua quan tâm nên sau đó, Hồi Giáo đã có thể xâm lăng và thẳng tay phá chùa giết tăng chúng, đẩy Ấn-Độ vào trạng huống từ bất ổn đến nghèo đói từ đó cho đến nay.

Tại Trung-Hoa thời nhà Đường, Phật-Giáo rất thịnh hành và cũng mang theo sự thịnh hành của đất nước. Nhưng về sau bị Nho giáo lấn át rồi bị Tây-Phương xâu xé.

Ba biến cố lịch sử kể trên đã xác nhận một quy luật: Phật giáo và Dân tộc thì không thể phân ly. Giáo Hội Phật-Giáo và Nhà nước Việt Nam nên rút tỉa bài học vừa vinh quang vừa tủi nhục của ba biến cố ấy.

4. Tánh, Tướng, Chấp, Danh:

Trước năm 1975, Phật Giáo tại miền Nam đã bị lũng đoạn phân hóa thành hai tổ chức là Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Đó là điều đau lòng cho Phật Tử. Phật Tử chúng ta được chư tôn đức dạy phép Lục Hòa thì chính một vài vị lại không sống với lời dạy đó. Nước nhà hòa bình thống nhất, ai cũng cứ tưởng rằng vết thương đau nhức ấy chắc sẽ lành và không bao giờ còn tiếp diễn nữa. Nhưng niềm hy vọng ấy dần dà bay theo gió núi mây ngàn.

Từ năm 1992, Phật Giáo Việt Nam lại có hai danh xưng là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Đâu là những trở ngại do những danh xưng đó có thể gây ra? Chúng tôi sẽ không đào sâu vì quý vị có lẽ cũng đã biết rồi, mà chỉ xin kể hai chuyện đau lòng để quý vị suy ngẫm:

– Năm 1993, tôi đi xe đò từ Đà Nẵng ra Huế, bác tài xế trên xe là một Phật tử và vì biết tôi cũng là một người đồng đạo từ xa về nên bác tâm sự rằng: “Mấy năm trước, địa phương Đà Nẳng chúng tôi tổ chức Phật Đản rất vui. Chỉ cần một phiên họp, quí thầy cắt đặt đạo hữu chúng tôi mỗi người lo một việc thế là xong. Năm nay đã 3 đêm họp liên tiếp rồi nhưng chưa có kết quả. Vì trong buổi họp có hai ý kiến khác biệt nhau. Một số thì đề nghị làm dưới danh xưng của giáo hội có chữ thống nhất, số khác thì bác bỏ. Chỉ vì mấy chữ “thống nhất” và “không thống nhất” mà không khí buổi họp trở nên rất căng thẳng và Đà Nẵêng năm nay sợ e sẽ không có lễ Phật Đản…”

– Mấy năm sau đó, tôi đến thăm một ngôi chùa tại vùng cao nguyên. Tuy là ngày Chủ nhật nhưng tôi chẳng thấy bóng dáng những em Gia Đình Phật Tử đến sinh hoạt như trước năm 1975. Sau đó, tôi bèn hỏi một số cựu huynh trưởng thì được mấy vị đó trả lời là “Chúng tôi đợi lúc nào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phục họat rồi chúng tôi mới sinh hoạt trở lại”. Tôi than thở, liệu 50 hoặc 70 năm nữa Giáo Hội Thống Nhất mới tái sinh hoạt thì sao, mấy vị đó yên lặng không trả lời.

Người Phật tử được dạy phải bỏ tánh, bỏ tướng, bỏ chấp, bỏ danh. Nhưng nay chỉ vì có hay không hai chữ “Thống Nhất” mà một số sinh hoạt Phật Sự bị ngưng trệ.

Danh xưng hầu như không có ảnh hưởng trong những sinh hoạt của Phật Giáo trong mấy năm qua tại hải ngoại. Thật vậy, từ hơn hai mươi năm qua, người Phật Tử Việt-nam nước ngoài tha hồ truyền đạo và hành đạo với bất cứ danh xưng nào, thành lập bất cứ giáo hội nào mà mình muốn. Nhưng bình tâm nhìn lại thành quả thì có lẽ phải nhận rằng phần lớn tâm sức và tiền tài đều hoặc dồn vào việc thi đua làm chùa, hoặc tiến hành những hoạt động chống đối mà phần lớn là phe ta chống phá phe mình, hoặc trúng kế xui Nguyên dục Bị chỉ làm lợi cho các thế lực đã và sẽ thù nghịch với cả Phật Giáo lẫn Tổ Quốc Việt Nam.

Nhiều nơi trong nước mà tôi có dịp biết qua, chỉ vì bị “trói” bởi hai chữ “Thống Nhất” mà một số nhân sự Phật Giáo nằm chờ thời chứ không chịu làm việc. Số khác thì chủ yếu tập trung vào các đô thị, còn vùng quê và nhiều nơi nghèo đói thì khoán trắng cho Công giáo. Riêng tại Cao nguyên thì hoàn toàn bỏ ngỏ cho Tin Lành, mà hậu quả hiện nay như thế nào thì mọi người đã biết. Chúng ta có thể tóm lược sự tai hại nầy bằng 4 câu thơ chữ Nho của ngài Qui-Thiện như sau:

Do lai duật bạng cửu tương trì,

Để sự tang thương vị liễu tri.

Bán chẩm hoàng lương kinh mộng hậu,

Tiền trần hội thủ sự giai phi.

(Có nghĩa: Nghêu cò kém trí, thợ săn thậm mừng).

5. Thi Đua Làm Chùa:

Tại các nước Tây Phương, việc quy định vị trí và công tác xây cất nhà thờ đều căn cứ trên nhu cầu tôn giáo và tỷ lệ phân bố số lượng tín hữu của từng địa phương. Một vùng phải có bao nhiêu tín đồ thì mới được phép dựng một ngôi nhà thờ. Tại Việt Nam, nguyên tắc nầy hầu như không được cả nhà nước lẫn các Giáo Hôi áp dụng. Vì vậy mà có nhiều vùng nhà thờ đồ sộ mọc lên quá loạn trước sự nghèo đói của dân chúng. Riêng đối với Phật Giáo, một số ít Tăng Ni trẻ cũng bắt chước tôn giáo khác trong việc lạm phát xây chùa ở những nơi đã có nhiều chùa rồi. Tình trạng phân bố bất hợp lý nầy không những làm cho chính sách hoằng dương Phật Pháp thiếu hiệu năng, mà còn bất chấp cả lời dạy từ bi của Đức Phật là mang đại sự nhân duyên đến cho tất cả chúng sinh.

Thêm vào đó, làm nhà thờ và làm chùa đôi lúc rất bừa bãi, không xin phép, không theo một nguyên tắc kỷ thuật và mỹ thuật tối thiểu nào cả nên bị chính quyền bắt phải tự tháo gở hoặc bị tháo gở. Nếu sự việc nầy xẩy ra thì họ lại hô hoán là “không có tự do tôn giáo” và “vi phạm nhân quyền” ! Tại chính các nước Tây Phương như Hoa Kỳ, việc làm chùa, làm nhà thờ hoặc xây cất mà không có giấy phép và không đủ tiêu chuẩn an toàn cũng sẽ bị đình chỉ, thậm chí còn phá đi và chủ xây cất phải chịu trả tiền phạt. Nhưng không thấy ai hô hoán là thiếu tự do tôn giáo và thiếu nhân quyền bao giờ. Do đó, thay vì thi đua làm chùa ở một vài nơi tại Việt-nam và nhiều nơi khác ở hải-ngoại mà xem ra có nhiều vùng không cần thiết, chúng ta nên thi đua tu học và đóng góp vào các công trình văn hoá và công tác từ thiện xã hội v.v.

Để đối phó với tình trạng hết lạm phát Tăng Ni ở vài đô thị lớn lại đến nạn lạm phát chùa ở một số vùng, Giáo Hội nên điều hướng việc trùng tu và xây dựng hệ thống chùa vào những vùng sâu, vùng xa, vùng cao nguyên, vùng quê hẻo lánh và đặc biệt là nên trùng tu các chùa làng; những di tích văn hóa bị bỏ quên, Giáo Hội nên ban hành các nguyên tắc hướng dẫn và qui-định tối thiểu để tránh sự phí phạm tịnh tài của Phật tử đóng góp và tránh nạn tăng ly chúng tăng tàn.

6. Đưa Phật Sự Vào Xa Lộ Công Nghệ Thông Tin:

Trên cả hai lãnh vực điều hành Giáo Hội và tiếp cận/xử lý thông tin của nhân loại, các phương tiện hiện nay mà Giáo Hội đang sử dụng thì không phù hợp nữa, thậm chí không tương dụng với các đối tác của Giáo hội vốn là Phật Tử và các định chế tôn giáo trên thế giới. Thật ra, sản phẩm của công nghệ thông tin đã phổ quát và đơn giản đến độ không hiểu vẫn dùng được (như khách sử dụng máy bay mà không cần biết máy bay đã được thiết kế và gia công như thế nào).

Thiết lập một hệ thống mạng lưới tin học cho Giáo Hội không phải là chuyện khó, lại cũng chẳng phải là chuyện cần vốn đầu tư lớn, mà hiệu quả sẽ tăng lên cả ngàn lần và ứng dụng của nó thì vô cùng. Từ tích lũy tài liệu đến phân bố kinh sách, từ điều hành nhân sự đến phổ biến thông tin, từ kiểm tra tài chánh đến xử lý công tác. Hai điều lợi nhất của hệ thống nầy là làm chủ thời gian thật, và khống chế không gian theo ý muốn: Một vị Trụ trì ở Cao Bằng có thể biết ngay tức khắc có bao nhiêu phái đoàn tham dự một Đại hội Phật giáo tại Paris, một Ủy viên trung ương của Giáo Hội ở Hà Nội có thể biết được và xử lý kịp thời một nhu cầu tài chánh của một ngôi chùa tại Sóc Trăng, một nhà nghiên cứu Phật Học của một viện đại học Mỹ có thể đọc được thơ của Vua Trần Nhân Tôn, …

Từng bước đầu tư có hệ thống vào hệ thống công nghệ thông tin của Giáo Hội là tăng tốc phát triển một cách an toàn và hiện đại. Và quan trọng hơn, là không bị thời đại và nhân loại bỏ lại đàng sau.

7.Chương Trình Giáo Dục Tăng Ni Tại Các Trường Cơ Bản Và Cao Cấp:

Như chúng ta đã biết, đạo Phật không phải là những giáo điều cứng nhắc và xa vời với thực tế. Đạo Phật không nói chuyện trên trời mà nói chuyện con người. Mục tiêu chính của độc thần giáo là phụng sự Chúa, còn đạo Phật thì phụng sự chúng sanh. Giáo lý của Phật là cái gì có thể nắm bắt và thực chứng. Do đó, chương trình giáo dục Tăng Ni trong các trường cơ bản và cao cấp Phật-Học phải được hoạch định để giá trị bằng cấp của các trường Phật Giáo phải được chính thức thừa nhận, nếu không cao hơn thì cũng có giá trị tương đương với các trường khác hầu giúp cho Tăng Ni sinh không cần phải theo đuổi một lúc 2 chương trình là chương trình cao đẳng của trường Phật Học và chương trình của một đại học ngoại điển khác ở bên ngoài.

Muốn giỏi thì sinh viên nên được hướng dẫn và khuyến khích chọn những môn học mà mình thực sự có năng khiếu, chứ không nên một lúc ôm đồm học nhiều môn thì sẽ không học được gì cả.

Để có thể đạt được mục đích nâng cấp giá trị văn bằng của các trường Phật Giáo, uỷ viên giáo dục của Giáo-Hội nên có một chương trình giáo-dục tốt, tổ chức và tạo điều kiện cho ban giảng huấn tham gia các chương-trình tu nghiệp và hội thảo về giáo-dục, trong đó quy tụ nhiều chuyên viên và các nhà giáo dục có tiếng trong nước và nước ngoài để tạo cơ hội cho ban giảng huấn trao đổi và học hỏi thêm kinh nghiệm giảng dạy.

8. Học Hàm Thụ:

Mấy năm gần đây H. T. Thích Trí Quảng và báo Giác Ngộ có tổ chức chương trình học hàm thụ, đó là một trong những điểm son cần được tán thán công đức. Giáo-Pháp của Phật là một món hàng vô giá, nhiều Phật tử không đủ phương tiện và điều kiện để đến trường Phật Học thì chương trình hàm thụ là một đáp ứng cần thiết. Những người hiểu và thực hành lời dạy của Phật sẽ trở thành những công dân tốt góp phần dựng nước và giử nước. Thời Lý Trần, vịêc dựng nước và giữ nước đều dựa trên căn bản học đạo và hành đạo từ vua quan đến dân chúng, vì thế mà quân Nguyên Mông bị đuổi đi như đuổi vịt. Đó là một trong những nét vàng son cần được duy trì và phổ triển. Các lớp học hàm thụ không những chỉ được tổ chức tại các thành thị mà nên mở rộng khắp các tỉnh, thành và làng mạc để mỗi người Phật Tử luôn luôn vẫn là những con người có đạo lực cao trong việc hộ quốc an dân cho mọi thời đại.

9. Hiện Đại Hóa Danh Từ Phật Học:

Phật là gương sáng trong việc thích ứng phương thức quãng diễn chánh pháp. Ngôn từ và cách thế thuyết pháp của Đức Phật đổi thay tùy theo hoàn cảnh và căn cơ người thọ nhận. Chúng ta đã bỏ chữ Hán sang chữ Nôm, rồi bỏ chữ Nôm sang mẫu tự La-Tinh. Ngoài ra, một điều đáng lo cho những người Việt lưu vong, và nhất là con em người Việt lưu vong, là chúng ta đang bỏ tiếng Việt để dùng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga… Phật Giáo Việt Nam – ở hải ngoại cũng như trong nước – phải đối phó với hiện tượng đa ngôn ngữ ấy như thế nào? Những kinh văn nặng nề Hán Việt như chú Vãng-sanh, Tiêu Tai Cát Tường Thần chú, chú Đại Bi và ngay cả kinh Nhật-Tụng cũng thiếu sự thống nhất. Có rất nhiều cuốn kinh tụng hằng ngày được lưu hành, mỗi chùa dùng một bản khác nhau, đã tạo rất nhiều trở ngại cho việc đọc tụng của tín đồ.

Ngoài ra nhà Phật chủ trương như thế nào và Phật-Tử phải có thái độ như thế nào về quản lý kinh tế thị trường và tự do mậu dịch, về môi sinh, về nền văn hóa thụ hưởng chết bỏ, về những hậu quả của văn minh dot.com đối với tâm linh, về thực phẩm cải biến, về gene, về cloning, về phá thai, về trợ tử. Dĩ nhiên, người Phật-Tử tin tưởng mình thuộc vào một tôn giáo vượt lên trên khoa-học và đạo pháp vi diệu miên viễn sẵn có những câu trả lời thích đáng cho từng câu hỏi đó, bởi lẽ thời nào đi nữa thì thế giới cũng không thể vận hành ra ngoài vòng Sinh-Trụ-Dị-Diệt, cũng như con người không thể thoát khỏi con đường cong một chiều Sinh-Lão-Bệnh-Tử. Nhưng ngôn từ của trăm năm trước, của mười năm trước và bây giờ đã khác nhau. Cho nên, không trả lời – hay không nghĩ đến cách trả lời – cho những câu hỏi đó thì văn học Phật Giáo không khéo sẽ trở thành văn chương không phải của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư, Trịnh Công Sơn, mà là văn chương của Nhị Độ Mai, Cung Oán Ngâm Khúc, hay của Nguyễn đình Chiểu chỉ gần gũi với những chuyên viên Hán-Nôm mà không gần gũi với đại chúng.

10. Trung Tâm Văn Hóa Có Tầm cỡ

Thư khố trung ương và viện bảo tàng Phật Giáo – Dưới danh xưng nào thì ngày 30.4.1975 cũng là cơ may cho Phật Giáo thống nhất thật sự. Mọi ý thức phân rẽ cục bộ sẽ bị hồn thiêng sông núi và đạo lực của truyền thống Phật Giáo Việt Nam hóa giải.

Nhiều ngàn năm qua Phật Giáo Việt-Nam đã xây dựng được những ngôi chùa nguy nga đồ sộ, nhưng kiểu đồ sộ xưa tuy có giá trị lịch sử và văn hóa cao nhưng lại thiếu tiện dụng cho các hoạt động hôm nay. Nếu có một cuộc đại hội Phật-Giáo toàn quốc hay đại hội Phật-Giáo thế giới với số lượng khoảng một ngàn người ngay cả chỉ có 500 người, chúng ta cũng thấy trở ngại về phòng họp, phòng ăn, phòng vệ sinh, về tổ chức, về kiểm soát, về điều hành. Do đó, thay vì thi đua làm các ngôi chùa nhỏ, mà nhiều nơi lại không cần thiết, Giáo-Hội nên nghiên cứu chương trình xây cất một cơ sở Phật-Giáo có tầm cở của Thế-kỷ 21 trên một khoảng đất rộng tối thiểu vài chục mẫu.

Trong đó gồm một thư khố Phật-học, một viện bảo tàng Phật giáo, một phòng họp hiện đại, phòng ngồi thiền có thể chứa đựng vài ngàn người cùng một lúc, phòng ẩm thực, công viên, thiền cảnh… Chia ra khu tĩnh, khu động. Ngay cả trong công trình nầy cũng nên nghiên cứu xây cất một khách sạn hay lưu xá vài trăm phòng để làm nguồn lợi tức cho việc hoằng dương Phật Pháp thay vì nhất nhất mọi việc đều kêu gọi vào sự đóng góp của tín đồ. Mỗi Phật Tử hay mỗi gia đình Phật Giáo trong và ngoài nước có thể được mời vào ban sáng lập bằng sự cúng dường một khoản tiền nào đó cho việc xây cất cơ sở nầy. Phải chăng đây là thời gian đúng lúc, đúng thời để đại hội thảo luận thêm vấn đề này?

Kính thưa quý vị, thời vua A-Dục tại Aán-Độ, thời nhà Đường tại Trung-Hoa, thời Lý-Trần tại Việt-Nam, hộ trì chánh pháp là công việc của các vua quan và đại thần với sự đồng thuận của mọi giai tầng xã hội, nhờ thế mà dân giàu nước mạnh, xã hội thái bình. Những bài học lịch sử đó phải chăng cần được tất cả người dân Việt ý thức và chiêm nghiệm để phụng sự tổ quốc tốt đẹp hơn, và lúc sơn hà nguy biến thì có thể đuổi kẻ xâm lăng như đuổi vịt.

Chúng ta đang ở trong những ngày cuối cùng của năm 2002. Chỉ còn mấy tuần nữa là đến năm 2003. Một số ý kiến thô thiển của chúng tôi hôm nay xin được trình lên chư Tôn-Túc, quí đại biểu, quí vị khách quí và chư Phật tư,û trong truyền thống “phục vụ Dân Tộc trong ánh sáng của Đạo Pháp và phục vụ Đạo Pháp trong hoàn cảnh cụ thể của Dân Tộc.

Ai rồi cũng phải ra đi, không thể ở mãi trên thế gian nầy. Vậy thì xin gởi lại những gì đẹp cho nhân thế. Vâng chúng ta nên cố gắng.

Xin cám ơn và trân trọng kính chào liệt quí vị.

Cư sĩ Hồng Quang

29-11-2002
http://tongiaovadantoc.com/c1038/20110317164933225/10-van-de-cap-thiet-cua-phat-giao-dan-toc.htm

HẾT BỆNH UNG THƯ NHỜ TU THIỀN – Thích Nguyên Tạng

HẾT BỆNH UNG THƯ NHỜ TU THIỀN
Thích Nguyên Tạng
________________________________________
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
Tôi quyết định viết về chuyện ung thư ngực (breast cancer) của tôi với hy vọng rằng nó có thể là lợi ích cho quý đọc giả là tôi hạnh phúc lắm rồi. Đó là một kinh nghiệm thâm thúy của bản thân vì nó giúp tôi chính thức chuyển đổi hướng đi của tôi trong cuộc sống và Phật pháp đã đóng một vai trò quan trọng dẫn dắt tôi trong hướng đi mới này.
Lần đầu tiên tôi phát hiện mình có một khối u ở bên ngực trái vào đầu tháng 7 năm 1990. Cuộc khám nghiệm cho thấy đó là loại ác tính. Tôi đau khổ vô cùng vì tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bị ung thư, vả lại gia đình tôi không có tiền sử về căn bệnh nan y này và tôi chỉ ở cái tuổi bốn mươi hai. Lúc đó, tôi chợt nhớ đến một bài báo đã đọc trên tờ MANDALA (báo của hội Phật Giáo Tây Tạng, ấn hành ở Hoa Kỳ bằng tiếng Anh từ năm 1975) nói về một phụ nữ mang bệnh ung thư, được Lạt Ma Zopa dạy rằng đó là dịp tốt để làm lợi ích cho người khác vì căn bệnh của mình. Nhờ đó mà tôi được an ủi và cảm thấy rằng mình cũng như một người có ích cho kẻ khác. Tôi có một cảm giác tràn ngập với những tội lỗi và tin rằng bằng một lý do một nào đó mà có lẽ tôi đã phải chịu một hình phạt ở ngày hôm nay vì những hành vi bất thiện vốn từng gây trong quá khứ.

Sue Dixon (bên trái) và Thích Nguyên Tạng
Hình chụp trên bán đảo Kangaroo, miền Nam nước Úc
Tôi có một cuộc phẫu thuật vào ngày 4 tháng 7. Năm tuần sau tôi trở về nhà và đi làm bốn ngày trong một tuần, đó là một công việc căng thẳng của một chuyên viên liệu pháp gia đình tại một Trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng. Một tháng sau chồng tôi lại mổ ruột thừa và sau một tháng thì anh ta bị liệt. Tất cả những căng thẳng ấy đã vây lấy tôi. Đó là không kể đến làm một bà mẹ và ba đứa con ở tuổi thiếu niên. Năm kế đó, tôi vừa đi làm một tuần năm ngày và vừa đi học để lấy bằng Cao học.
Ngày 25 tháng 5 năm 1992, lần đi khám thường lệ ở bệnh viện. Bác sĩ phẫu thuật cho hay lá gan có nguy cơ lớn hơn trước và rồi chiếu X-quang lại khám phá ra ngực thứ hai cũng bị ung thư. Tôi rất giận dữ và gần như tuyệt vọng. Tất cả những đau đớn đã ập đến và tôi lại bệnh nặng thêm. Tôi bị căng thẳng ở nơi làm việc, không có hạnh phúc trong gia đình, tôi đã đầu hàng và cứ để bệnh ung thư này nghiền nát tôi.
Rồi vào một buổi chiều, tôi viết cho Thượng tọa Zopa (ngài đang ở Hoa Kỳ) một lá thư với nội dung đầy tuyệt vọng. Sau ngày đó tôi có một nội tâm rất mãnh liệt và biết là việc làm đó đúng như mong đợi của tôi, một tuần sau tôi nhận được thư hồi âm từ ông ta. Ngài Zopa có lời an ủi tôi, chỉ dạy tôi những phương pháp tập Thiền cần thiết và ngài cũng nhắc lại rằng tôi đang có cơ hội tốt để có lợi ích cho người khác.
Thầy của tôi là Thượng tọa Khensur Rinpoche ở Adelaide (Úc), cũng dạy cho tôi một số phương pháp đặc biệt trong việc sử dụng y học Phật Giáo. Ngài cũng nhắc nhở tôi phải cẩn thận trong việc ăn uống, tập Thiền, niệm hơi thở hàng ngày. Ngài cũng khuyên tôi đừng quá bi quan và buồn rầu mà hãy nghĩ rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp và tôi sẽ sớm bình phục.
Tôi nghỉ làm việc ở Trung tâm liệu pháp và nhận ra rằng điều đó làm cho tôi khó chịu vì cá tính nghề nghiệp đã buộc chặt tôi trong nhiều năm qua. Vào tháng 12 năm 1992 tôi nhận thấy rằng nếu tôi hết bệnh ung thư và khỏe mạnh bình thường thì có lẽ tôi đã chấm dứt cuộc hôn nhân hai mươi bốn năm của mình rồi. Đây là một vấn đề bế tắc, một quyết định đau khổ và cũng là nguyên nhân làm cho cha mẹ tôi phải đau buồn.
Cũng trong thời gian đó, tôi theo học một chương trình nội trú ở trung tâm Gawler gần bang Melbourne. Anh Ian Gawler là sáng lập viên của trung tâm, một người tự khôi phục lại từ bên lề của cái chết vì bệnh ung thư xương (bone cancer) trong mười bảy năm trước khi nhờ phương pháp Thiền và ăn chay theo Đạo Phật. Trung tâm đã cống hiến một cơ hội ngàn vàng cho những người bệnh ung thư đến để chỉnh đốn cuộc sống của mình và bắt đầu thay đổi thói quen của lối sống theo “động cơ” trong quá khứ, học và hành Thiền niệm hơi thở, dùng những thức ăn bổ, khỏe và cố nhiên là thức ăn dành cho người bệnh.
Ở nơi đó, tôi nhận ra rằng tôi có được thuận lợi và tiến bộ đáng kể trong công việc chữa lành bệnh. Tôi thấy mình trở nên trầm lặng hơn, dễ chịu hơn, và chấm dứt những thói quen theo động cơ và tạo ra những khả năng thực sự để tự chữa bệnh cho mình.
Tôi trở về nhà và vẫn tiếp tục hành Thiền nhiều hơn nữa, từ một cho đến hai giờ mỗi ngày theo phương pháp thở, uống vitamin và nhiều loại thuốc bổ tổng hợp khác. Chồng tôi và tôi đã có sự giúp đỡ lẫn nhau thay vì sống ly thân. Tôi cũng có đi châm cứu và đến phòng tập thể dục ba lần trong mỗi tuần.
Đến đầu tháng 7 năm 1993, tôi đi siêu âm và kết quả cho thấy không có sự bất thường trong gan của tôi nữa, các khối u cũng đều biến mất. Tôi sung sướng như đã vứt bỏ một gánh nặng. Tôi liền tổ chức một bữa tiệc ăn mừng để cám ơn quý Thầy, quý bạn bè và gia đình đã an ủi và giúp đỡ tôi trong lúc bệnh. Thượng tọa Khensue Rinpoche đã nói với tôi thật là một điều kỳ diệu rằng tôi đã khỏi bệnh, một căn bệnh trầm trọng nhưng chỉ đối trị với những phương pháp đơn giản. Tôi cảm ơn ngài về sự chỉ dạy của ngài cũng như những người bạn đạo khác. Sau đó chúng tôi đi bách bộ ra ngoài, tôi nhìn thấy một cầu vòng sáng choang ở phía trước chúng tôi. Tôi đã nhận ra rằng cuộc hành trình của tôi chỉ nới bắt đầu.
Đạo Phật đã giúp tôi chữa bệnh bằng cách nào ?
Tôi hoàn toàn tin tưởng vào các vị Thầy đạo hạnh của tôi, cũng như các phương pháp Thiền của Phật pháp một cách tuyệt đối. Tôi tin rằng căn bệnh này là sự chín muồi của nghiệp có liên quan từ đời sống quá khứ và tôi chỉ nhìn nó như một sự thanh lọc hoàn toàn. Tôi cũng cho rằng đây cũng là một dịp may để loại bỏ chu kỳ của nghiệp vì nếu không thì nó sẽ được lập đi lập lại bằng chính nó. Một cách kỳ lạ, tôi cảm thấy bệnh ung thư của tôi lại làm cho tôi khỏe hơn lên.
Áp dụng y học Phật Giáo để chữa bệnh, trong đó vấn đề nhịn ăn, kiêng ăn và tập thở là những điều quan trọng hàng đầu đối với tôi. Tôi quán chiếu một tia sáng theo phương pháp thiền Kim cang để gột rửa đi những tế bào ung thư ở bên cửa miệng của tử thần, rồi tôi thấy mật hoa màu vàng phủ trùm cả cơ thể tôi, và như thế mà lá gan của tôi đã phục hồi trở lại. Tuy nhiên phải mất một vài tháng trước khi tôi có thể những khối u trong tôi bị tẩy sạch.
Một phép quán khác quan trọng nữa là nhìn thấy ai đó đang bị đau đớn, hít vào một hơi thật sâu để xua tan đi những u tối trong tâm hồn và làm rộ ra viên kim cương, cái chính thực của mình. Và rồi thở ra với một luồng ánh sáng trắng từ viên kim cương ấy để đem vào cái mát mẻ và an lạc từ những nỗi đau đớn. Tôi cũng nguyện cầu cho tất cả mọi người bị vướng phải căn bệnh này sớm biết được phương pháp thiền quán này để họ bớt khổ đau.
Tôi có một niềm vui nhất định khi tập thiền. Qua giáo lý và thiền, tôi nhìn thấy rõ cách tồn tại hoàn toàn của tôi được quyết định bởi sự tỉnh thức và sự tự giữ lấy mình. Tôi bắt đầu thấy rõ mình lúc thức, lúc ngủ, cũng như lúc thoải mái hay lúc bực mình. Tôi bắt đầu nắm bắt được sự thật là nếu tôi khỏe lên thì có lẽ tôi lại phóng túng, phá vỡ mọi trật tự những cái sẽ đưa đến sự hoàn thiện, sự hạnh phúc. Thật khó cho chúng ta đạt được như ý trong khi vẫn cứ chạy theo cái lề thói cũ của mình. Điều đó đã liên quan đến cả cuộc sống lẫn trong mọi sinh hoạt hàng ngày của tôi. Chẳng hạn như việc sử dụng đồ đạc, trong tiếp xúc, những cái mà tôi không thích thì nay được thay đổi, bước đi với những bước chân thanh thản, nhẹ nhàng thay vì chạy rầm rầm… cũng như những việc lớn giống như tình trạng hôn nhân thoải mái nhưng không hạnh phúc nơi mà tôi đã dần dần bị xói mòn bởi sự giận dữ và xung đột.
Thật là điên cuồng để chạy theo những cái mỏng manh và huyền ảo của lợi danh và vật chất, để rồi lúc đối đầu với cái chết, chúng ta mới nhận ra rằng mình cũng giống như bao người khác, chỉ là sự sợ hãi, thất vọng và “ra đi” với hai bàn tay trắng trong nỗi niềm luyến tiếc những người mình thương, với những gì mình sở hữu. Tại sao chúng ta không biết chuẩn bị cho mình một cái gì đó cho ngày ấy? là một người bằng xương bằng thịt, tôi đã tuyệt vọng khi đối đầu với cái chết để trở nên một người biết thức tỉnh và biết lo tu học. Tôi rất mong quý đọc giả không giống như tình trạng của tôi.
Thế thì tương lai của tôi sẽ ra sao? Tôi cho rằng đang chờ xem thử những gì sẽ xảy ra. Nhưng tôi dám chắc là căn bệnh ung thư kia đã bị loại bỏ hoàn toàn nhờ “phương thuốc” Thiền thần diệu của Đạo Phật.
Hiện nay tôi đang bận rộn viết cho xong cuốn sách về phương pháp Thiền trị bệnh của Phật Giáo, nhưng tôi muốn nghe ý kiến cũng như muốn đối thoại với bất cứ những ai thắc mắc và quan tâm đến vấn đề này. Hoặc gởi thư cho tôi qua địa chỉ : Sue Taylor, P.O.Box 578 , Kingscote, SA 5223, Australia. Tel: 08.8559 3260.
Theo MANDALA Journal, 10/ 09/1993

http://www.quangduc.com/nepsong/012sue.html

Con đường tu tập của người Phật tử tại gia qua những bài học thực tiển rút ra từ Kinh Trung Bộ – Trần Như Mai.

Con đường tu tập của người Phật tử tại gia qua những bài học thực tiển rút ra từ Kinh Trung Bộ.

Trần Như Mai
—o0o—

Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm ray rứt với biết bao câu hỏi ‘tại sao ? ‘Tại sao cuộc sống đầy rẫy những khổ đau, bất hạnh, bất như ý?’, ‘ Tại sao cùng sinh ra làm kiếp người, mà lại có muôn vàn sai khác, cách biệt nhau ?’, ‘ Tại sao niềm vui thường chóng tàn và khổ đau, phiền não cứ triền miên như bất tận?’, và ‘ Làm thế nào để hết khổ được vui ?’
Tất cả những câu hỏi đó, triết học thế gian cũng như nhiều tôn giáo đã từng đưa ra những lời giải đáp khác nhau, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Với lòng khao khát chân lý và mong muốn tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của chính bản thân và cuộc sống, tôi đã tìm đến đạo Phật và xin theo học khóa giảng Kinh Trung Bộ tại Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
Trước đây, khi chưa biết gì về đạo Phật, tôi vẫn thường nghe nhiều người phê bình rằng đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, tiêu cực, là đạo của những kẻ chán đời, thất bại trong cuộc sống và muốn trốn chạy cuộc đời…v v . Thế nhưng, sau hơn hai năm theo học lớp Kinh Trung Bộ, tôi thấy rằng những lời giảng dạy của Ðức Phật rất thiết thực, đã giải tỏa cho tôi biết bao ưu tư phiền não, đã đem lại cho tôi một nguồn an lạc thanh cao, một sức mạnh tinh thần vững chắc để làm hành trang cho tôi trên vạn nẻo đường đời, và đã thay đổi cách nhìn của tôi về con ngườI và cuộc sống.
Từ mỗi bài pháp của Kinh Trung Bộ, tôi đều có thể rút ra một bài học thực tiển để suy nghĩ và áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù đó là bài pháp Ðức Phật thuyết giảng cho các tỷ kheo, cư sĩ hay ngoại đạo.
Những bài học thực tiển rút ra từ Kinh Trung Bộ rất nhiều và phong phú, nhưng trong phạm vi giới hạn của bài viết này, tôi chỉ xin đề cập sơ lược đến một vấn đề thiết thân, cốt lõi nhất của chúng ta, đó là vấn đề ‘ Tại sao con người đau khổ ?’, và ‘ Làm thế nào để hết khổ ?
Giáo pháp của Ðức Phật thật vô vùng thâm sâu, vi diệu, dù ta bỏ cả cuộc đờI để học hỏi nghiên cứu chắc cũng chưa đủ ! Thế nhưng, nhìn xuyên suốt quá trình 45 năm hoằng pháp độ sinh, Ðức Phật đã khẳng định :
‘ Này, các tỷ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ nói một điều, đó là sự khổ và diệt khổ ‘

Vậy, thế nào là khổ ?

Theo cách hiểu thông thường của chúng ta thì Khổ có hai loại: vật chất và tinh thần. Về vật chất thì bệnh tật, già yếu, đói rách, thiếu thốn mọi nhu cầu của cuộc sống hằng ngày là khổ. Về tinh thần thì tất cả những điều trái ý nghịch lòng đều làm ta khổ : phải xa cách người mình yêu thương là khổ, phải gần gũi người mình oán ghét là khổ, cầu mong mơ ước không thành là khổ…vv
Nhưng Ðức Phật với trí tuệ của một Bậc Toàn Giác, đã có một cái nhìn thật rốt ráo về khổ, Ðức Phật đã khẳng định : ‘ Tất cả những gì vô thường đều là khổ ‘.
Quả thật, từ khi sinh ra cho đến khi lớn lên, học hành, rồi đi làm việc, ta thấy cuộc sống như một giòng sông phẳng lặng, êm đềm trôi chảy mãi không thôi. Ta không hề chú ý đến những biến hoại đang âm thầm diễn ra từng giây phút trong vạn vật cũng như trong chính bản thân mình. Ngay trong thân thể của chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… mỗi ngày qua là mỗi hao mòn suy yếu, thế mà ta cứ tưởng rằng mình vẫn giữ được mãi nét thanh xuân, nên ta không ngừng mọi nỗ lực để tô bồi cho thân ta ngày càng trẻ trung tươi tốt ! Ta bị cuốn hút vào việc mưu cầu lợi ích cho bản thân, nào là tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, tình yêu…, và cho rằng đó là mục đích của cuộc sống, là lý tưởng, là hạnh phúc duy nhất của đời người. Ta say sưa trong men dục của thế gian và tưởng rằng chúng sẽ mãi mãi là của ta. Cho đến một ngày kia, ta gặp một sự thất bại, một biến cố bất thường, một sự mất mát lớn lao đập mạnh vào tim khiến ta đớn đau, bàng hoàng, rời rã, như : mất tài sản, mất địa vị, danh vọng mà ta đã dày công xây đắp, mất tình yêu, mất sắc đẹp, mất người thân yêu nhất của ta….Ta giật mình nhìn lại chuổi ngày qua, nhìn lại mình và tự hỏi ‘ Ðây có phải là hạnh phúc đích thực chăng?’. Nếu là hạnh phúc đích thực, nó phải trường tồn, vĩnh viễn, không bao giờ mất. Tại sao ta bây giờ không còn là ta của những ngày đã qua ?Tại sao niềm vui giờ đã tan biến và chỉ còn lại nỗi chán chường, mệt mỏi, thất vọng, muộn phiền ? Ta giật mình hoảng hốt, muốn níu kéo lại những gì đã qua, nhưng nào có được! Ta cảm thấy bất lực và đau khổ muôn vàn …
Ở đây, lời dạy của Ðức Phật đã soi sáng cho ta chân lý muôn đời:’ Tất cả các pháp đều vô thường, và tất cả những gì vô thường đều là khổ ‘
Nhưng nguồn gốc của khổ đau do đâu mà có ?
Ta biết rằng khổ đau có mặt cùng lúc với sự hiện hữu của con người. Khổ đau do con người phát hiện và cảm nhận. Nếu không có con người thì vấn đề đau khổ không được đặt ra.
Triết học thế gian đã từng đặt vấn đề: ‘ Tôi là ai ? Tôi từ đâu đến và sẽ đi về đâu ?’. Nhưng những lời giải đáp mang tính chất siêu hình của triết học thế gian không làm thoả mãn những người đang khao khát đi tìm chân lý. Ðôi lúc con ngườI lại nguỵ biện về sự hiện hữu của mình : ‘ Tôi đâu có muốn sinh ra đời, chính vì do ý muốn và dục vọng của cha mẹ tôi mà tôi phải có mặt trong cõi đời này, vậy cha mẹ tôi phải chịu trách nhiệm về mọi đau khổ của tôi !’.
Ðức Phật đã đưa ra một lời giải đáp rốt ráo về nguyên nhân sự hiện hữu của con người trong cuộc đời qua Lý Duyên Khởi.
Ta sinh ra và có mặt trong đời không phải là một sự tình cờ hay ngẫu nhiên. Trong Ðại Kinh Ðoạn Tận Ái, Ðức Phật đã dạy rằng, chính do ái dục, do lòng khao khát được tiếp tục thọ hưởng các dục ở thế gian mà thức của ta đã gá vaò bào thai của người mẹ vào đúng thời điểm hội đủ các điều kiện thuận lợi của bốn món ăn: đoạn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực, để từ đó một con người được sinh ra trong cõi đời. Chính bốn món ăn này do ái dục làm nhân duyên, và ái dục lại kết hợp với vô minh để cho ra đời toàn bộ khổ uẩn của con người.

Tại sao Ðức Phật dạy rằng vô minh kết hợp với ái dục để phát sinh toàn bộ nỗi thống khổ của con người ?
Ta đã hiểu rằng do ái dục, con người đã đựơc sinh ra. Lúc còn nhỏ, tình cảm của ta chưa định hướng rõ ràng, nhưng lúc lớn lên, khi sáu căn bắt đầu tiếp xúc với sáu trần, tham ái bắt đầu khởi. Ta bắt đầu phát sinh tình cảm yêu thích, giận hờn, ghét bỏ, ham muốn…, và từ từ ta bị lôi cuốn vào các dục trưởng dưỡng: sắc, thanh, hương, vị, xúc… Sự cám dỗ của các dục ngày càng gia tăng theo tốc độ phát triển của nền văn minh vật chất. Ðược cái này, ta lại muốn cái kia; được cái kia ta lại muốn cái nọ, cứ muốn sao cho bằng hoặc hơn bà con, bạn bè, thiên hạ. Ta không những muốn ăn ngon mặc đẹp, muốn có người yêu lý tưởng, mà lại còn muốn giàu sang, danh vọng, điạ vị … để cho mọi người nể nang, thán phục. Ta thấy tự ngã của mình càng ngày càng lớn, ta chẳng muốn thua kém ai, càng ngày ta càng chìm đắm trong biển dục mênh mông không biết đâu là bờ bến…
Chính vì vô minh nên ta không hiểu được sự nguy hiểm của các dục, như Ðức Phật đã dạy:’ Này các tỷ kheo, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, ở đây sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn ’.
Chính vì vô minh, ta chấp thân làm ngã. Ta chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thức này là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Do đó, ta tìm mọi cách, mọi phương tiện để làm thỏa mãn tấm thân ngũ uẩn này. Ðức Phật đã dạy rằng, Ác Ma vốn không phải ai xa lạ, nó chính là năm dục trưởng dưỡng. Khi ta tham đắm dục lạc, chính là lúc ta đã rơi vào bàn tay của Ác Ma, bị Ác Ma điều khiển, ta mù quáng làm theo mệnh lệnh của Ác Ma, để rồi dấn thân tạo nghiệp, thọ khổ…, và kết quả là tiếp tục quanh quẩn trong sáu nẻo luân hồi.
Như vậy, vô minh kết hợp với ái dục : vô minh sinh ái dục, và ái dục nuôi dưỡng vô minh. Cứ như thế, toàn bộ khổ uẩn của con ngườI bắt đầ từ đó, như Lý MườI Hai Nhân duyên đã nêu rõ.
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu được khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Ðức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta con đường diệt khổ.
Ðây quả thực không phải là một vấn đề đơn giản cho những người phàm phu như chúng ta. Ta có thể hiểu được khổ và nguồn gốc của khổ, nhưng ta không thể nào diệt được khổ nếu ta không có trí tuệ. Vai trò của trí tuệ thật hết sức quan trọng đối với người muốn đoạn tận khổ đau và giác ngộ giải thoát.

Vậy thế nào là người có trí tuệ ?

Trong Kinh Trung Bộ, Ðức Phật đã nhiều lần đề cập đến người có trí. Người có trí là người có nghe lời dạy của Ðức Phật, có tu tập hành trì đúng như lời dạy của Ðức Phật, biết rõ sự sanh diệt của các pháp. Người ấy biết rõ: đây là lậu hoặc, đây là lậu hoặc tập khởi, đây là lậu hoặc đoạn diệt, đây là con đường đi đến lậu hoặc đoạn diệt. Từ đó, người ấy tinh tấn tu tập hành trì để dần dần đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến đoạn diệt các mầm mống của sanh y, tiến tới an lạc, giải thoát, Niết Bàn.
Ðức Phật đã dạy: ‘ Này, các tỷ kheo, phàm như có sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa nào khởi lên, chúng chỉ khởi từ người ngu, không khởi từ người trí ’. Vì sao ? Vì người trí đã có tri kiến như thật về sự sanh diệt của các pháp, người ấy đã biết rõ thế nào là khổ, đâu là nguyên nhân, và con đường diệt khổ. Từ đó, ngườI ấy biết rõ việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Người ấy biết rõ các pháp bất thiện sẽ đem lại sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa…nên người ấy cương quyết không làm. Người ấy biết rõ các thiện pháp sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc nên người ấy cố gắng tinh tấn thực hiện. Do đó, sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa, khổ đau sẽ không đến gần người có trí.
Ðối với chúng ta đang còn là những phàm phu, bản chất chúng ta vốn yếu đuối cả về trí tuệ lẫn thể xác, vì vậy, khi một việc bất hạnh, phiền não xảy ra, chúng ta như người bị trúng hai mũi tên độc: thân ta đau đớn và tâm ta cũng đau đớn. Muốn nhổ mũi tên độc trong thân, chỉ cần có thầy hay thuốc tốt là ta có thể lành bệnh, nhưng muốn nhổ mũi tên độc trong tâm thật vô cùng khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải có một sức mạnh tinh thần phi thường, sức mạnh ấy phát xuất từ trí tuệ.
Do đó, muốn có trí tuệ, ta phải biết thân cận với người có trí để nghe pháp, tuỳ pháp và hành pháp. Nhờ nghe pháp nhiều, tâm trí ta ngày càng được soi sáng, ta hiểu được Lý Duyên Khởi, sinh lòng tin vào Phật, Pháp, Tăng. Ta cố gắng giữ gìn giới luật, hộ trì các căn, sống thiểu dục tri túc, chế ngự không cho tham ái khởi lên, giữ vững chánh niệm tỉnh giác trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Ta hiểu được nguyên nhân vì sao ta có mặt trong đời, vì sao ta gặp bất hạnh hay được sung sướng, vì sao cùng là con người mà lại có muôn vàn sai khác cách biệt nhau. Tất cả đều do hành động của ta, do nghiệp của ta đã tạo trong quá khứ và hiện tại.
Cảnh giới ta thọ hưởng trong hiện tại hay tương lai đều tùy thuộc vào hành động của ta trong quá khứ hay hiện tại. Hành động thiện tạo nghiệp lành sẽ đưa đến an lạc, hành động ác tạo nghiệp dữ sẽ đem lại khổ đau. Ta đau khổ hay hạnh phúc đều do chính hành dộng của ta quyết định. Ta là chủ nhân của nghiệp và cũng là kẻ thừa tự nghiệp. Bởi thế ta phải cố gắng tạo nghiệp lành và từ bỏ những hành động bất thiện.
Sự đau khổ trong hiện tại là do nghiệp của ta đã tạo trong quá khứ. Vậy, muốn chấm dứt đau khổ, ta phải tích cực làm những hành động thiện để chuyển nghiệp. Nhưng thế nào là hành động thiện ? Ðức Phật đã định nghĩa rất rõ :’ Hành động nào đem đến lợi mình, lợi người, lợi cả hai là hành động thiện. Hành động nào đem đến hại mình, hại người, hại cả hai là hành động bất thiện’.
Bởi thế, trước khi làm một việc gì, ta phải suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo, xem hành động sắp làm là thiện hay bất thiện; kể cả hành động nào chỉ có lợi cho mình mà không lợi cho người, ta cũng nên tránh. Ngay cả trong tâm ta, ta phải luôn luôn giữ vững chánh niệm, tỉnh giác để kiểm soát giòng tư duy của mình. Khi một ý niệm bất thiện chưa khởi, ta cố gắng chế ngự đừng cho nó khởi; và khi nó đã khởi, ta cố gắng tìm cách đoạn trừ. Khi một ý niệm thiện chưa khởi, ta hãy tìm cách tạo điều kiện cho nó sinh khởi, và khi một ý niệm thiện đã khởi, ta cố gắng nuôi duỡng cho nó tăng trưởng ngày càng tốt đẹp hơn.
Ta cố gắng tu tập trong từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động nhỏ hằng ngày. Cố gắng giữ gìn thế nào để tâm chỉ nghĩ đến điều thiện, miệng chỉ nói những lời thiện, thân chỉ làm những việc thiện. Ðó chính là quá trình rèn luyện để có chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
Ðây quả thực là một con đuờng tu tập rất khó khăn đối với chúng ta. Bởi vì, ý nghiệp đã ăn sâu vào tiềm thức, đã chi phối, hình thành nếp suy nghĩ, thói quen và hành động thường ngày của ta. Bây giờ, ta phải thanh lọc ngay từ ý nghĩ của mình để ngăn cản không cho phát sinh lời nói hay hành động bất thiện. Bản chất của chúng ta vốn do ái dục sinh, và ta đang trầm mình trong dục giới với đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến…, do đó, ta rất dễ bị dục vọng lôi cuốn và trở nên yếu đuối, dễ quên mất lời Phật dạy, và chìu theo dục vọng, buông thả với chính mình. Chỉ cần thiếu tỉnh giác, buông lơi phóng dật, dễ dãi với chính mình là ta đã rơi ngay vào vòng tay của Ác Ma dục vọng !
Vì thế, ta phải luôn luôn phản tỉnh để thanh lọc tâm. Chính quá trình phản tỉnh để thanh lọc tâm là một quá trình tu tập để tịnh hóa tam nghiệp. Tu tập chính là một quá trình thanh lọc tâm để chuyển nghiệp và tiến tới chấm dứt nghiệp.
Muốn tu tập có kết quả, ta phải nghiêm khắc với chính mình. Giữ giới là một hình thức kỷ luật tự giác của bản thân, giúp ta chế ngự bản năng, dục vọng để hướng tâm về các điều thiện. Tiếp đến, hành thiền là con đường giúp ta thanh lọc tâm và tịnh hóa tam nghiệp một cách hữu hiệu nhất. Vì như Ðức Phật đã dạy: ’Thiền là thay thế năm triền cái bằng năm thiền chi ‘. Trong quá trình thanh lọc tâm, ban đầu ta từ bỏ các pháp bất thiện về thân, lời, ý; cố gắng thành tựu các thiện pháp về thân, lời, ý. Rồi tiếp đến, từng bước, từng bước một…, ta cột tâm vào một đối tượng, dần dần thay thế Tham, Sân, Hôn Trầm Thụy Miên, Trạo Hối, Nghi, bằng Tầm, Tứ, Hỷ Lạc và Nhất Tâm.
Ðây là một quá trình tu tập lâu dài và khó khăn đối với ta. Vì ta biết rằng năm triền cái là kẻ thù bên trong ta. Tiêu diệt kẻ thù bên trong bản thân mình quả thật vô cùng khó khăn gian khổ, đòi hỏi ta phải có nghị lưc lớn, quyết tâm cao để có thể tinh tấn hành trì mà không nản lòng. Chỉ có hành thiền mới giúp ta có một nội lực, một định lực, một sức mạnh tinh thần để đối trị với các dục, giúp ta vượt qua được những cơn khủng hoảng, yếu đuối trước sức cám dỗ của Ác Ma.
Khi tâm ta đã được định tĩnh, ta đã tìm được nguồn vui do thiền đem lại, lòng ta trở nên nhẹ nhàng thư thái, xả bỏ dần những trói buộc của dục vọng đã làm ta đau khổ bấy lâu nay. Khi ta đã hiểu được vô thường là qui luật của vạn pháp, không có gì là thường hằng, vĩnh cữu; và các pháp đều vô ngã, không có gì là ta, là của ta. Ta chỉ là một tập hợp của năm uẩn, của tứ đại, và rồi sẽ có ngày tan rã thành cát bụi. Như vậy, tiền tài, sắc đẹp, địa vị, danh vọng, tình yêu…, nói chung là tất cả các dục của thế gian và ngay cả tấm thân này, tất cả đều như bọt bước, như mây trôi, như giấc mộng…, tất cả rồi sẽ trở về với cái thực tướng của nó là KHôNG. Vậy có gì đáng cho ta tham đắm ? Còn gì đáng cho ta chấp thủ, phiền não, khổ đau ? Chúng đến hay đi, còn hay mất, ta hãy bình thản nhận biết và cố giữ cho tâm không giao động, không hoảng hốt, không sợ hãi, không khổ đau. Ta hãy chuẩn bị tinh thần để đón nhận vô thường như một người khách có hẹn trước. Nhờ vậy, khi vị khách Vô Thường đến, ta không ngạc nhiên, không hoảng hốt, không sợ hãi, chỉ bình thản nhận biết;’ A, vị khách Vô Thường đã đến !’.
Khi ta đã giữ được tâm thanh tịnh, bình thản trước mọi biến cố của vô thường, ấy là lúc ta đã thấy được đạo, ấy là lúc ta hưởng được cảnh Niết Bàn nơi trần thế, ngay trong hiện tại này. Hạnh phúc chính là đây! Và đây mới là hạnh phúc đích thực.
Khi ta đã thấy được chân lý, đã tìm được an lạc cho chính mình, lòng ta bỗng trở nên bao dung, rộng lượng. Ta cảm thấy thương yêu mọi người, nhìn mọi người bằng cặp mắt từ bi, nhìn cuộc đời với cõi lòng rộng mở. Ta bỗng cảm thấy xót xa khi
nhìn chung quanh ta có biết bao người đang đau khổ. Vì thế, ta quyết tâm dấn thân vào đời với tinh thần vô tham, vô sân, vô si, vô chấp thủ. Với lòng thương yêu tất cả chúng sanh, ta nguyện đem hết khả năng mình để phục vụ chúng sanh, giúp cho mọi người bớt khổ dược vui. Ðó là lý tưởng mà bất cứ người Phật tử chân chính nào cũng ước mơ thực hiện.
Như vậy, người Phật tử chân chính là người hạnh phúc nhất, vì người ấy biết sống thiểu dục tri túc, không tham ái, không chấp thủ. Nhờ nội tâm nhẹ nhàng, thanh thản, người ấy luôn luôn vui vẻ, yêu đời, an nhiên tự tại, biết thương yêu, giúp đỡ mọi người, biết sống thích nghi với mọi hoàn cảnh, và tìm được an lạc ngay giữa lòng cuộc sống xô bồ, đầy biến động của thế gian.
Tóm lại, những bài học thực tiển rút ra từ Kinh Trung Bộ đã giúp cho người Phật tử tại gia tìm thấy con đường tu tập ngay trong lòng cuộc đời, để vừa có thể đạt đến một cuộc sống hạnh phúc đích thực cho bản thân, vưà góp phần xây dựng một xã hội thanh bình, an lạc. Ðiều này đã chứng minh rằng Ðạo Phật không phải là một tôn giáo tiêu cực, bi quan. Ðức Phật nêu lên vấn đề đau khổvì đó là một sự thật không thể phủ nhận, ta cần phải mạnh dạn nhìn thẳng vào nó để tìm cách diệt trừ. Biết khổ và hiểu được nguyên nhân gây ra đau khổ để tìm phương pháp diệt khổ hầu đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho xã hội, đó chính là một trong những điểm tích cực nhất của giáo lý đạo Phật.

Trần Như Mai
http://www.quangduc.com/nepsong/36tutap.html

Hãi hùng cà phê ‘đểu’17/7/2012

Hãi hùng cà phê ‘đểu’17/7/2012

> Khủng khiếp công nghệ chế biến cà phê giả
> Giật mình cà phê chế biến từ đậu nành cháy

Đậu nành rang trộn với hàng loạt hóa chất, hương liệu sẽ biến thành “cà phê” chính hiệu. Công thức chế biến này đang được một cơ sở quy mô lớn tại Q.Tân Phú (TP.HCM) ngày đêm sản xuất cung cấp cho thị trường…

 
Quy trình sản xuất mất vệ sinh. Ảnh: Đàm Huy.

Đậu nành + hóa chất

 Cơ sở chế biến cà phê nhưng đố anh tìm được hạt cà phê nào

Một công nhân ở cơ sở rang xay cà phê Thông Phát

Trưa ngày 6-7, men theo con kênh nước đen bốc mùi trên đường Tô Hiệu, P.Hiệp Tân, Q.Tân Phú, chúng tôi tìm đến cơ sở rang xay cà phê Thông Phát (số 108 – lô 4 Tô Hiệu, P.Hiệp Tân, Q.Tân Phú). Cơ sở như một nhà kho, được xây dựng bằng sắt thép mái tôn cũ kỹ, trên diện tích hơn 500 m2.

Bên phía tay phải cơ sở, chiếm 2/3 diện tích là nơi chứa hàng trăm bao tải đậu nành; phần còn lại đủ để 3 máy rang đậu và 1 căn phòng nhỏ chứa các thùng hóa chất.

Đối với những cơ sở chế biến thực phẩm, vấn đề vệ sinh phải được đặt lên hàng đầu, nhưng chỗ này thì chẳng có chút vệ sinh nào cả. Ngoài trời nắng nóng oi bức, bên trong càng nóng bức hơn bởi 3 lò rang hừng hực lửa hoạt động hết công suất.

Cái lạ ở đây là mặc dù trong cơ sở và xung quanh không có một hạt cà phê nào nhưng mùi cà phê thơm lựng lan tỏa khắp khu vực… “Cơ sở chế biến cà phê nhưng đố anh tìm được hạt cà phê nào” – một công nhân ở đây vừa cười vừa nói một cách tự nhiên không chút e dè.

Chúng tôi cứ ngỡ câu nói đùa nhưng sau một hồi quan sát, mới biết anh công nhân nói thật. Vậy mà, hằng ngày, cơ sở này vẫn cho ra lò hàng tấn cà phê “đểu” cung cấp cho thị trường.

Một công nhân cho biết, 3 cái máy rang tại đây có công suất 250 kg/mẻ/cái. Đầu tiên, đậu nành hạt được cho vào lò rang cho cháy đen, rồi đổ vào một thùng nhựa lớn. Sau đó, đổ vào thùng nhựa một hỗn hợp hóa chất màu đen đã được pha sẵn (tùy theo yêu cầu của khách hàng mà chủ cơ sở tẩm mùi vị đậm đặc hay nhẹ hơn).

Toàn bộ đậu nành và hóa chất được cho tiếp vào lò quay đều để hóa chất thấm vào từng hạt đậu. Đậu nành trộn xong được đổ ào ra một cái khay lớn làm bằng tôn đặt dưới nền đất, một số công nhân xúm vào dùng xẻng đập, trộn liên hồi; rồi dùng quạt sấy khô không cho dính cục. Lúc này, hạt đậu nành biến thành màu đen giống hệt màu hạt cà phê, dù không phải cà phê nhưng thơm mùi cà phê đến sặc cả mũi…

Tại cơ sở Thông Phát, có thể nói hãi hùng nhất là công đoạn pha chế các loại hóa chất không rõ nguồn gốc với nhau để tẩm vào đậu nành sau khi rang. Chúng tôi thấy công nhân dùng ca nhựa múc thứ nước màu đen pha sẵn đổ vào đậu nành. Để có được hỗn hợp màu đen này, chúng tôi thấy công nhân pha trộn nhiều loại hóa chất khác nhau, có những hóa chất lấy từ can nhựa không có nhãn mác.

Chúng tôi đã kịp ghi hình lại nhiều công đoạn chế biến đậu nành thành “cà phê”. Công nhân tham gia chế biến ở đây có người mặc quần đùi, có người cởi trần; hoàn toàn không bao tay, khẩu trang…

Kể cả các dụng cụ sử dụng pha chế ở đây đã quá cũ kỹ, đóng nhiều lớp đen xì, trông rất mất vệ sinh. Chứng kiến cảnh nước, hóa chất, đậu nành vung vãi khắp nơi trên sàn đất suốt trong quá trình chế biến, chúng tôi không khỏi rợn người khi tưởng tượng đang cầm ly cà phê uống.

Lạnh người!

Không thể phân biệt thật giả

Khi chúng tôi vào gặp ông chủ cơ sở tên Thông đặt mua nửa kg đậu nành “cà phê”, nói là để về uống thử, nếu được sẽ lấy số lượng lớn; ông Thông mở nắp thùng nhựa màu xanh lớn trước cơ sở, xúc nửa kg cà phê đậu nành cho chúng tôi xem trước khi bỏ vào máy xay. Chỉ trong vài phút, nửa kg cà phê đậu nành nhanh chóng được xay mịn, biến thành nửa kg cà phê bột. Cầm nửa kg cà phê giả trên tay, tôi thầm nghĩ nếu “thượng đế” nào không tận mắt chứng kiến cảnh này thì đố ai biết đây là “cà phê” đậu nành.

Sau khi điều tra, ghi nhận về cung cách chế biến cà phê bột của cơ sở rang, xay cà phê, ngũ cốc Thông Phát, chúng tôi phối hợp với Thanh tra Sở Y tế TP.HCM để tiến hành kiểm tra cơ sở vào hôm qua 16-7.

Tại thời điểm kiểm tra, có hàng trăm bao nguyên liệu là đậu nành, bắp để làm ra “cà phê” chất tại đây, nhiều nơi những nguyên liệu này đổ ngổn ngang ra sàn nhà đen kịt.

Bên cạnh là các hóa chất, nguyên liệu để tẩm ướp đậu nành, bắp như: bột màu, đường hóa học, bơ, rượu… cũng để bừa bãi.

Nếu ai chứng kiến cảnh chế biến cà phê ở đây thì sẽ không bao giờ dám uống cà phê không rõ nguồn gốc nữa. Bởi, nhà vệ sinh thì đặt trong khu sản xuất; đậu nành, bắp sau khi tẩm ướp hóa chất, sấy… được cho ra những ô vuông dưới sàn nhà rất bẩn để các công nhân dùng bàn cào đảo qua lại.

Đến nơi pha hỗn hợp hóa chất để tẩm đậu nành càng ớn lạnh hơn. Nhiều thành viên trong đoàn thanh tra khi chứng kiến phải thốt lên “từ nay hết dám uống cà phê bên ngoài; phải mua cà phê hạt về mà tự chế biến thôi!”.

Đại diện cơ sở, ông Lê Minh Thông không ngần ngại cho đoàn thanh tra biết: cơ sở rang, chế biến theo đơn đặt hàng của khách từ hai năm nay; khách đặt sao làm vậy. Phần lớn khách đưa nguyên liệu là đậu nành, tinh cà phê, và các hóa chất, hương, màu tẩm ướp. Nếu khách không đưa phụ gia thì cơ sở cho người ra chợ Kim Biên mua. Mỗi ngày cơ sở rang, chế biến khoảng 1,5 tấn “cà phê”.

Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp hóa đơn, giấy tờ liên quan đến những khách đặt chế biến “cà phê”, thì ông Thông chỉ cung cấp được mỗi khách hàng là Công ty Nguyễn Thuấn (TP.HCM) và cho biết thêm còn gia công cho khách hàng lấy tên cà phê thành phẩm là An Phúc (ở miền Trung) và Cường Phát (ở TP.HCM).

Đoàn yêu cầu cung cấp sổ sách ghi số lượng rang, xay chế biến “cà phê” cho các khách hàng, ông Thông cũng không đáp ứng được. Cơ sở này cũng không có giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; nhân viên thì không kiểm tra sức khỏe…

Đoàn thanh tra lập biên bản, buộc cơ sở Thông Phát ngưng hoạt động; niêm phong, thu giữ một số hóa chất, phẩm màu, “cà phê” thành phẩm… để kiểm nghiệm làm rõ.

 
Lấy dung dịch màu đen “lạ” tẩm vào nậu nành rang .

 

 
Đậu nành sau khi trộn các loại hóa chất, hương liệu và rang xong.

 

 
Nơi pha trộn các hóa chất, phẩm màu để tẩm vào đậu nành chế biến thành “cà phê” .

 

 
Nguyên liệu đậu nành, bắp, các hóa chất để ngổn ngang. Ảnh: T.Tùng – Đàm Huy.

Theo Đàm Huy – Thanh Tùng
Thanh Niên

http://www.tienphong.vn/xa-hoi/584947/Hai-hung-ca-phe-%E2%80%98deu-tpol.html

 

Xã hi

14:23 | 31/05/2011

 

Giật mình cà phê chế biến từ đậu nành cháy

> Khủng khiếp công nghệ chế biến cà phê giả

Thời trước các nhà sản xuất cà phê cho khoảng 10% bắp rang để lấy độ keo, 90% còn lại là cà phê thứ thiệt. Nay tỷ lệ cà phê chỉ còn… 10%, phần còn lại là đậu nành cháy và bột bắp được tẩm với hoàng loạt hóa chất, hương liệu độc hại.

 
Bắp, đậu nành được rang cháy đen, dùng làm nguyên liệu chính trong sản xuất “cà phê”.

Sự thật của ly cà phê!

Thói quen của rất nhiều người dân là sáng sáng hớp một ngụm cà phê, hẹn hò bạn bè cũng cà phê, khi căng thẳng hay buồn ngủ cũng tìm đến cà phê. Rất nhiều người vốn chỉ uống theo thói quen mà không hề biết rằng thứ cà phê đó thực chất chỉ là hỗn hợp gồm bột bắp, đậu nành rang cháy và hương liệu hóa chất độc hại.

Trên thị trường hiện nay, giá bán của cà phê nhân dao động từ 50-55.000 đồng/kg. Với 1 kg nhân cà phê chỉ pha chế được 0,7 kg cà phê bột. Giá cà phê cao như thế nhưng nhiều hãng cà phê chào hàng với giá cũng chỉ 55 – 60.000 đồng/kg cà phê bột. Nếu tính cả chi phí nhân công, nhãn mác, bao bì, tiếp thị, vận chuyển… thì chắc hẳn các hãng cà phê này sẽ lỗ to. Vậy họ kinh doanh kiểu gì?

Hiện nay, khó thống kê được có bao nhiêu đơn vị sản xuất cà phê bột, chỉ biết rằng lượng cà phê và lượng người uống mỗi ngày là rất lớn. Thế nhưng, có một lượng không nhỏ cà phê đang được chế biến bằng… bắp và đậu nành. Sẽ là vô hại nếu những thứ đó được chế biến bình thường, nhưng đằng này chúng được sấy cháy đen thành… than rồi mới tẩm ướp, sau đó đóng gói và tung ra thị trường.

Sau rất nhiều lần tìm hiểu, cuối cùng chúng tôi được một người có tiếng trong nghề pha chế cà phê “bật mí” công thức chế cà phê rởm. Càng rùng mình hơn khi tận mắt chứng kiến các lò chế biến cà phê dơ bẩn và truy tìm được nguồn cung ứng của các loại hóa chất độc hại làm hương liệu trong pha chế cà phê.

 
Bắp sấy cháy này được xay thành bột trước khi tẩm hóa chất, hương liệu.

Rùng mình “công nghệ” pha chế

Đồng Nai được xem là nơi có nhiều cơ sở sản xuất, chế biến cà phê, cung cấp không chỉ cho khu vực Đông Nam Bộ mà ở nhiều địa phương khác trong cả nước; thậm chí tràn sang cả thị trường Campuchia. Những cái tên như cà phê X.L, H.K, Đ.N, T.Đ… không thương hiệu nhưng lại len lỏi vào rất nhiều quán lớn, nhỏ.

Qua giới thiệu, chúng tôi được tiếp cận với ông Nguyễn T.C. (ngụ ở phường Tân Hòa, TP Biên Hòa, Đồng Nai). Ông là tay pha chế cà phê có kỹ thuật bậc nhất ở vùng này. Rất nhiều ông chủ ở Đồng Nai, TPHCM mời ông về pha chế. Ban đầu ông nhận lời nhưng sau này phát hiện các ông chủ chỉ vì chạy theo lợi nhuận mà đánh mất bản sắc cà phê nên ông không hợp tác nữa.

Ông C. cho biết, những năm 80, các nhà rang xay cà phê cho khoảng 10% bắp rang để lấy độ keo cho cà phê, còn lại là cà phê thứ thiệt. Rồi trong quá trình chế biến, không biết ai đã “phát minh” ra đậu nành có thể thay thế cà phê! Càng ngày tỷ lệ thay thế này càng nhiều vì lợi nhuận của các nhà sản xuất và các chủ quán cà phê. Các chủ quán hẳn cũng biết tất cả, nhưng vì lợi nhuận, họ mua cà phê với giá càng rẻ càng tốt, khiến người sản xuất không cách nào khác là phải hạ giá tối đa. Và tất nhiên, đi kèm là phải hạ chất lượng.

Đem 2 ly cà phê ra, ông C. cho biết trong 2 ly này, 1 ly cà phê “xịn” và 1 ly đã pha chế tạp chất. Bằng kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, chỉ cần hớp một ngụm ông C. biết ngay ly bên phải là cà phê thứ thiệt, còn ly bên trái là cà phê “dỏm”. Sau đó ông “biểu diễn” cách pha chế ly cà phê “dỏm” với hương vị, màu sắc… y chang như gói cà phê mà mấy nhân viên chào hàng đem đến.

 
Hỗn hợp bột bắp, đậu nành và hương liệu tạo thành “cà phê” .

Tiếp tục, ông C. mang ra một ít bột bắp, bột đậu nành cháy cùng đủ các loại hóa chất, hương liệu. Ông C. bảo, tùy theo sở thích của mỗi người mà mình có thể phân chia tỷ lệ cà phê – đậu nành – bắp – hàm lượng hóa chất, phụ gia một cách linh hoạt. Ai muốn đắng thì thêm đậu nành cháy, muốn nhiều bọt thì thêm xút, thơm thì “đôn” hương liệu… Cân đo, đong đếm vài phút, ông C. đã có một hỗn hợp gọi là cà phê không khác gì gói cà phê mà nhân viên chào bán mang đến quán của ông. Theo ông C., người Việt mình có thói quen thích uống một ly cà phê phải đậm, đắng, sánh, bọt, thơm và… rẻ tiền. Vì vậy, các chủ quán mua sản phẩm cà phê theo tiêu chí này.

Ông C. cho biết, có cả hàng chục loại hóa chất, hương liệu để làm cà phê “dỏm”. Theo đó, để có màu đậm thì người sản xuất phải bỏ màu caramel, muối, đậu nành; vị đắng thì phải có đậu nành rang cháy, đường thắng tới cháy, thuốc tây có gốc quinin; sánh thì tinh bột, chất tạo đặc như CMC; bọt thì tất nhiên là chất tạo bọt công nghiệp; mùi thơm thì phải cho rất nhiều hương liệu… tinh sữa, tinh ca cao, tinh cà phê, bơ công nghiệp, đường hoá học, bột vani… Những hóa chất hương liệu này hiển nhiên đều là chất tạo màu, tạo mùi công nghiệp, nguy cơ gây hại cao.

Nếu tính cả nhân công sấy, xay, đóng gói, bao bì nhãn mác… thì giá một kg cà phê bột cũng đã lên đến hơn 100.000 đồng. Nhưng trên thị trường hiện nay, đa phần các điểm bỏ sỉ cà phê đều với giá từ 50-60.000 đồng/kg. Ông C khẳng định: “Với giá như vậy thì chỉ có bột bắp và đậu nành chứ cà phê gì mà rẻ đến vậy”. Cơ sở để ông C. nói “chắc như đinh đóng cột” là bởi theo tính toán của ông, hiện giá đậu nành 13.000 đồng/kg và bắp 9.000 đồng/kg. Như vậy, hỗn hợp bột bắp, đậu nành, hương liệu, có thể có thêm chút cà phê nguyên chất mà bán đến 50-60.000 đồng/kg thì các cơ sở sản xuất cà phê kiểu này đã lời gấp 2, 3 lần rồi.

Các cơ sở sản xuất cà phê “dỏm” đã đánh vào tâm lý các quán cà phê là chuộng hàng rẻ để thu lời nhiều. Mặt khác, do người tiêu dùng đã uống rất lâu “cái gọi là cà phê” nên họ không còn nhớ vị cà phê nguyên thủy nữa, nên có một thực tế là những người không tinh miệng sẽ… chê sản phẩm cà phê nguyên chất. Điều này làm đau đầu những nhà sản xuất có lương tâm!

“Vì vậy, để hạn chế tác hại của “cà phê bẩn”, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng thì ngoài sự ra tay của các cơ quan chức năng còn cần sự góp sức của chính người tiêu dùng. Và cần lắm những nhà sản xuất có đạo đức, lương tâm” – ông C. thở dài kết luận.

Theo Công Quang – Đức Luật
Dân Trí

//  

 

//  

http://www.tienphong.vn/xa-hoi/539957/Giat-minh-ca-phe-che-bien-tu-dau-nanh-chay-tpot.html

 

‘Đại chiến Bạch Đằng’ xôn xao cộng đồng mạng

‘Đại chiến Bạch Đằng’ xôn xao cộng đồng mạng

> Sắp ra mắt phim về chiến thắng Bạch Đằng

TP – Bộ phim hoạt hình lịch sử Đại chiến Bạch Đằng của nhóm sinh viên khoa Mỹ thuật Công nghiệp, ĐH Quốc tế Hồng Bàng đang gây xôn xao cộng đồng mạng.

Nhiều ý kiến cho rằng, bộ phim chưa thực sự xuất sắc nhưng chuyển tải được những giá trị nhất định, và hợp thời.

 
Nhóm tác giả “Đại chiến Bạch Đằng” (ảnh do các nhân vật cung cấp).

Khó cũng làm

Đại chiến Bạch Đằng dài 6 phút 38 giây, sử dụng hình ảnh vẽ 2D, xen lẫn một vài cảnh hiệu ứng 3D, được Vũ Đức Thịnh – trưởng nhóm cùng các bạn: Nhữ Thị Thùy Diệp, Nguyễn Thanh Đức, Đinh Ngọc Chính, Trần Hậu, Đặng Minh Quyền thực hiện.

Lời bình hùng hồn cùng những đoạn phim mô tả hào khí của đội quân Ngô Quyền, bộ phim tái hiện chiến thắng trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán.

Nhiều bình luận về video clip của bộ phim trên Youtube cho rằng, Đại chiến Bạch Đằng gây xúc động, đặc biệt là với những bạn trẻ, trong đó có nhiều người vốn không thiện cảm với hoạt hình Việt cũng như lịch sử Việt được chuyển tải thành phim.

Nhóm sinh viên đã mất gần 3 tháng rưỡi để hoàn thành bộ phim. Trưởng nhóm Vũ Đức Thịnh cho biết, ban đầu cả nhóm định thực hiện một đề tài không liên quan đến lịch sử. Sau khi nhận được sự động viên góp ý của các thầy cô, cả nhóm quyết định thực hiện bộ phim trên.

Kinh phí eo hẹp, phải bỏ tiền túi để làm, thời gian gấp gáp nên các khâu kỹ thuật, cử động, ngoại hình của nhân vật chưa được chăm chút kỹ.

Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, hiệu trưởng trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng nói: “Trong cuộc đời Ngô Quyền, khoảnh khắc huy hoàng nhất là lúc đánh đắm thuyền của quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Vì vậy nhà trường hướng dẫn các em tập trung khai thác sự kiện này để gây xúc động, ấn tượng. Nhà trường luôn cho rằng, ngoài các vấn đề xử lý kỹ thuật, chuyên môn, cần một người hướng dẫn về văn hóa, lịch sử, triết học, xã hội học… để đề tài và đồ án của các em mang tính nhân văn, đi vào cuộc sống. Đồ án của cả nhóm được nhà trường đánh giá khá cao. Tuy nhiên, chỉ sau khi đưa lên mạng, bộ phim mới gây được tiếng vang”.

Phim hoạt hình về lịch sử thường gây e dè vì đối tượng người xem rất hạn chế. Cả nhóm quyết tâm thực hiện sau khi nghiên cứu bộ Đại Việt sử ký toàn thư, tìm hiểu tài liệu về trận đánh, cách viết kịch bản, lời bình sao cho mỗi cảnh phim đều gây xúc động… Bộ phim sau khi đưa lên Youtube đã thu hút hơn 70.000 lượt xem.

Học làm phim hoạt hình, ra trường làm game

Thầy Phan Văn Bảy, người hướng dẫn đồ án Đại chiến Bạch Đằng cho biết, trước bộ phim này, đã có rất nhiều phim của sinh viên do thầy hướng dẫn được cộng đồng mạng đánh giá khá cao như Dưới bóng cây, Cua càng đại chiến, Giấc mơ chim én, Bài học của chú heo ngố, Kỷ vật

Các phim đều được hoàn thành trong thời gian khoảng 4-5 tháng, sinh viên phải bỏ tiền túi ra thực hiện. Những nhóm nào đông thành viên, công việc được chia sẻ nhẹ nhàng hơn.

Tuy nhiên, theo thầy Bảy, thị trường phim hoạt hình ở Sài Gòn không có đất sống. Một vị giám đốc đài truyền hình từng thổ lộ với thầy Bảy rằng, mạo hiểm kinh phí để đầu tư cho phim hoạt hình dài tập do sinh viên sản xuất, chẳng thà mua bản quyền của nước ngoài, đỡ tốn kém và thu hút người xem nhiều hơn.

“Trong khi đó, nguồn nhân lực làm phim hoạt hình được đào tạo tại TPHCM khá lớn, có chất lượng. Dù ngay cả trường sân khấu điện ảnh cũng không thấy đào tạo về phim hoạt hình. Sau khi ra trường rất ít sinh viên tiếp tục tâm huyết làm phim hoạt hình. Nhiều em đi làm thiết kế, đồ họa quảng cáo, game…, chủ yếu thiên về xử lý kỹ thuật. Rất ít em được làm phim hoạt hình thực sự, nghĩa là phim chuyển tải được ý nghĩa, thông điệp sâu sắc, nhân văn đến người xem. Có những em tiếp tục theo nghiệp làm phim nhưng lại là gia công cho các hãng phim nước ngoài”, thầy Bảy nói

Vũ Đức Thịnh cho biết, sau khi ra trường, nhiều khả năng em sẽ đầu quân cho một công ty game. Mặc dù tâm huyết với phim hoạt hình nhưng phần lớn sinh viên đều cho rằng, phim hoạt hình ở Việt Nam vẫn chưa có đất chiếu.

Thầy Phan Văn Bảy đánh giá: “Hiện nay nhà nước chưa có sự đầu tư nhiều về phim hoạt hình, đặc biệt là phim lịch sử. Điều đó khiến sinh viên đam mê thể loại này không tìm được hướng ra cho tác phẩm”.

Lê Quang Minh

http://www.tienphong.vn/van-nghe/585208/Dai-chien-Bach-Dang-xon-xao-cong-dong-mang-tpp.html

http://www.youtube.com/results?search_query=%C4%90%E1%BA%A1i+chi%E1%BA%BFn+B%E1%BA%A1ch+%C4%90%E1%BA%B1ng+&oq=%C4%90%E1%BA%A1i+chi%E1%BA%BFn+B%E1%BA%A1ch+%C4%90%E1%BA%B1ng+&gs_l=youtube.3…15375.15375.0.18000.1.1.0.0.0.0.297.297.2-1.1.0…0.0…1ac.RXOEgImMJC8

Sắp ra mắt phim về chiến thắng Bạch Đằng

> ‘Đại chiến Bạch Đằng’ xôn xao cộng đồng mạng

TP – Đạo diễn Minh Trí vừa được tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT, người gắn bó cả đời với phim hoạt hình chia sẻ về dự án phim hoạt hình lịch sử, đặc biệt 5 tập phim về Ngô Quyền và đại chiến Bạch Đằng.

 
Hình ảnh Thánh Gióng phá giặc Ân trong tác phẩm của đạo diễn Minh Trí.

Ông có biết phim hoạt hình dài 6 phút – “Đại chiến Bạch Đằng” do nhóm sinh viên làm, đang gây sốt trên mạng?

Tôi xem rồi, rất hoan nghênh tinh thần đề cập đề tài lịch sử, đặc biệt là chiến thắng Bạch Đằng. Tôi cho đây là sự dũng cảm, bởi dù sao với trình độ của các bạn chập chững vào nghề, làm phim lịch sử là thách thức.

Muốn thể hiện sâu sắc nhân vật lịch sử ấy, chiến thắng ấy phải cần đến tay nghề vững vàng hơn. Nhưng sản phẩm ấy đủ nói lên tâm huyết, khát vọng muốn thể hiện đề tài lịch sử, rất nên khuyến khích để có sự lan tỏa lớn để cân bằng, giáo dục giới trẻ trước luồng văn hóa ngoại lai quá mạnh hiện nay.

Được biết, đạo diễn cũng sắp ra mắt 5 tập phim về Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng?

Năm tập phim có độ dài 60 phút, về anh hùng Ngô Quyền từ thuở nhỏ đến lúc trưởng thành, dẹp thù trong giặc ngoài, và đặc biệt là tái hiện chiến thắng Bạch Đằng.

Hiện, phim đang ở giai đoạn cuối hậu kỳ-hòa âm, có thể ra mắt đầu tháng tới. Tôi gấp rút hoàn thành bởi thời cuộc đang cần thiết sự có mặt của những phim như thế.

Bản thân tôi từng làm nhiều phim hoạt hình lịch sử, dòng phim này hấp dẫn tôi: Thánh Gióng (5 tập), Sơn Tinh Thủy Tinh (5 tập), Triệu Quang Phục (3 tập). Đề tài lịch sử là mối quan tâm lớn trong suốt thời gian làm nghề của tôi. Phim hoạt hình đầu tiên của tôi cũng về lịch sử Truyện cổ thành ốc năm 1986, dài 30 phút.

Ông đánh giá thế nào về số lượng phim hoạt hình lịch sử sản xuất những năm qua?

Đề tài lịch sử đối với phim hoạt hình được quan tâm, đề cập từ lâu. Đặc biệt dự án làm 100 tập phim hoạt hình lịch sử của xưởng hoạt hình thuộc Trung tâm sản xuất phim truyền hình Việt Nam (VFC) khởi xướng từ 2005, đến nay cũng được hơn 80 tập.

Nội dung phản ánh trung thực tiến trình lịch sử từ thời Âu Cơ, Lạc Long Quân, Hai Bà Trưng, Bà Triệu cho đến Lý Bí, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Lê Lợi. Ngoài ra, Hãng phim hoạt hình Việt Nam cũng khởi động chương trình làm phim lịch sử độ hai năm trước, có một số phim như Trần Quốc Toản, Giấc mơ Loa Thành.

Thế mà đa phần khán giả không biết hoặc không được xem những phim hoạt hình ấy, chẳng lẽ giới làm nghề cứ mãi áo gấm đi đêm?

Nhiều lí do khách quan, chủ quan khiến phim hoạt hình Việt chưa đến được khán giả như mong muốn. Nhà đài nhiều khi phát sóng kiểu có chỗ trống lúc nào thì phát, không thông báo, ngay tác giả cũng không biết phim mình phát sóng lúc nào.

Phim sản xuất ra luôn trong trạng thái không biết chiếu ở đâu, quảng bá ra sao mặc dù có khối lượng phim hẳn hoi, và xã hội rất cần: Trẻ em Việt Nam cũng muốn xem phim Việt, bởi nhiều khi phim hoạt hình phát trên truyền hình chưa thực sự phù hợp.

Vậy theo đạo diễn, có cách nào đưa hoạt hình Việt nhất là những phim đề tài lịch sử công phu đến khán giả?

Để tới công chúng có nhiều con đường. Nhiều khi không cứ ra rạp, lên sóng. Ngắn gọn như đưa lên mạng, nếu có trợ giúp thì phát hành DVD. Phim Người con của rồng do tôi thực hiện, may mắn được hãng phim Phương Nam phát hành, nhưng số phim được thế này hãn hữu.

Chúng ta chưa có chủ trương khai thác triệt để nguồn phim hoạt hình Việt được sản xuất trong nhiều năm qua. Cần có khung giờ phát sóng cố định, đồng nghĩa với việc đòi hỏi quy mô lớn về nhân lực, khối lượng sản xuất.

 
Hình ảnh Thánh Gióng phá giặc Ân trong tác phẩm của đạo diễn Minh Trí. 

Thời gian qua, nhiều nhóm làm phim trẻ, không chuyên cũng say mê làm phim hoạt hình và đưa lên mạng. Đó cũng là lực lượng trẻ đáng để ý?

Tiếc là các bạn trẻ được đào tạo và làm phim hoạt hình thoạt đầu thích đấy, nhưng sau không thể theo đuổi được. Muốn họ làm nghề thì phải được ở môi trường làm việc liên tục và đồng lương phải sống được.

Phim ảnh của ta nói chung nhỏ lẻ, không nuôi được nguồn nhân lực, không những không phát triển được mà còn rơi vãi đi.

Thế nên, cùng trình độ ấy họ chuyển sang làm những thứ không cần chất xám nhiều hơn như làm hoạt hình: quảng cáo, trò chơi điện tử, hoặc chương trình dạng Quà tặng cuộc sống – dùng thể loại hoạt hình để kể chuyện.

Gần đây, với chủ trương xã hội hóa, nhiều hãng phim tư nhân cũng tỏ ra hiệu quả ở mảng sản xuất phim điện ảnh, truyền hình giải trí. Nhưng chưa có hãng tư nhân nào dám nhảy vào làm hoạt hình: Chi phí lớn, nhiều rủi ro, không chắc hút quảng cáo.

Toan Toan

http://www.tienphong.vn/van-nghe/585207/Sap-ra-mat-phim-ve-chien-thang-Bach-Dang-tpp.html

Xăng dỏm là tác nhân chính gây cháy xe máy

Xăng dỏm là tác nhân chính gây cháy xe máy

17/05/2012 19:26

 
 

(TNO) Kết quả nghiên cứu xác định các nguyên nhân gây cháy xe gắn máy được Sở Khoa học và Công nghệ (KH-CN) TP.HCM công bố vào chiều nay (17.5) khẳng định xăng dỏm là tác nhân chính gây cháy xe. Đồng thời, Sở KH-CN cũng kiến nghị ngưng lưu hành xăng A83 và siết chặc nhập khẩu, kinh doanh methanol để “chặn đầu” xăng dỏm.

Nghiên cứu này được Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Lọc Hóa dầu (RPTC) và Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Động cơ đốt trong của Trường ĐH Bách khoa TP.HCM thực hiện.

Xăng dỏm gây cháy xe

Các nhà khoa học kết luận xăng pha methanol, ethanol chất lượng thấp và không đúng kỹ thuật phá hủy hệ thống ống dẫn nhiên liệu, làm tăng áp suất hơi trong bình xăng, gây rò rỉ nhiên liệu. Nhiên liệu bị rò rỉ gặp nguồn nhiệt đủ nóng (sinh ra từ hoạt động của động cơ, hoặc ma sát hệ thống hãm, tia lửa điện từ quá trình chập mạch của hệ thống điện phương tiện) sẽ gây cháy.

 
Nhóm nghiên cứu trình bày tác hại của xăng dỏm trong việc phá hủy hệ thống ống dẫn làm rò rỉ nhiên liệu – Ảnh: Diệp Dức Minh

Đặc biệt, việc sử dụng xăng có chỉ số RON thấp như xăng A83, xăng pha methanol, ethanol kém chất lượng, không tương thích với yêu cầu động cơ sẽ gây ra các vùng nóng cục bộ và nguy cơ gây cháy cao.

Trong khi đó, phó giáo sư – tiến sĩ Phan Minh Tân, Giám đốc Sở KH-CN, cho biết qua kiểm tra các mẫu xăng dầu trong năm 2011, có 35/154 mẫu có methanol.

 
Một vụ cháy xe máy tại Hà Nội – Ảnh: Thái Sơn

Methanol là yếu tố chính để những người kinh doanh gian lận chất lượng xăng, biến xăng A83 thành A92. Cách “phù phép” xăng A83 thành A92 lại vô cùng đơn giản. Chỉ cần pha methanol 15% vào xăng A83 là đã có xăng A92. Trong khi xăng A92 có giá là 23.300 đồng/lít thì giá methanol chỉ chưa đến 10.000 đồng/lít.

Mặt khác, việc mua methanol trên thị trường hiện nay cũng rất dễ dàng.

“Vì lợi ích kinh tế khổng lồ, không ít đơn vị đã không ngần ngại pha chế, kinh doanh xăng dầu dỏm”, ông Tân nhìn nhận.

“Chặn đầu” xăng dỏm

Trước công bố nguyên nhân cháy xe và thực trạng xăng dỏm hiện nay, Sở KH-CN TP.HCM đã có kiến nghị với Bộ KH-CN ngừng lưu hành xăng A83 và siết chặt việc nhập khẩu và kinh doanh methanol trên thị trường, coi methanol là mặt hàng kinh doanh có điều kiện.

Theo ông Tân, xăng A83 có thể chỉ được lưu hành đến cuối năm 2012.

Đồng thời, theo ý kiến các nhà khoa học, cần đưa ra những quy định bắt buộc về tiêu chuẩn chất lượng xăng, cụ thể là quy định nồng độ methanol trong xăng.

 
Người tiêu dùng hoàn toàn bất lực trong việc “phòng vệ” với xăng dỏm – Ảnh: Diệp Đức Minh

“Việc đảm bảo chất lượng xăng dầu trước hết là trách nhiệm của người kinh doanh xăng dầu và các công ty, đơn vị đầu mối sản xuất, nhập khẩu và phân phối xăng dầu. Đây đều là các doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước giao kinh doanh mặt hàng này. Vì vậy, các doanh nghiệp không thể thoái thác trách nhiệm về chất lượng xăng dầu trên thị trường”, ông Tân nói.

Hiện nay, TP.HCM vẫn tiếp tục tăng cường thanh tra, kiểm tra việc kinh doanh xăng dầu trên địa bàn. Tuy nhiên, Giám đốc Sở KH-CN TP.HCM cho biết phân phối và bán lẻ là hai khâu khó quản lý chất lượng xăng nhất.

Sở KH-CN TP.HCM yêu cầu các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực xăng dầu xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng trong hệ thống phân phối, kinh doanh xăng dầu. Đầu mối phân phối phải chịu trách nhiệm liên đới với cửa hàng, đại lý kinh doanh xăng có chất lượng kém.

  
 Trách nhiệm về chất lượng xăng dầu trước tiên là của đơn vị kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước – Ảnh: Diệp Đức Minh

“Người tiêu dùng, ngay cả tôi, mắt thường cũng không thể phân biệt được xăng dỏm. Vì vậy, chịu trách nhiệm về chất lượng xăng dầu trước tiên là của đơn vị kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước”, ông Tân khẳng định.

Dự kiến, Sở KH-CN TP.HCM sẽ tiếp tục triển khai nghiên cứu nguyên nhân gây cháy đối với xe ô tô.

Để đề phòng cháy xe, nhóm nhà khoa học nghiên cứu xác định các nguyên nhân gây cháy xe gắn máy cũng khuyến cáo với người tiêu dùng:

– Nên sử dụng nhiên liệu xăng phù hợp với tiêu chuẩn của động cơ theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

– Không sử dụng xăng bất hợp pháp hay loại phụ gia nào chưa được cơ quan chức năng cho phép sử dụng trên thị trường.

– Kiểm tra định kỳ phương tiện đang sử dụng, đặc biệt là hệ thống truyền dẫn nhiên liệu trên động cơ, hệ thống điện.

– Thay thế thiết bị nên đến các trung tâm bảo dưỡng của nhà sản xuất, các chi tiết thay thế phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và nguồn gốc xuất xứ.

– Không được lắp thêm các thiết bị phụ trợ khác khi chưa được phép của nhà cung cấp phương tiện.

– Không được chứa các vật dễ gây cháy nổ trong thùng đựng mũ bảo hiểm (nước hoa, hộp quẹt,…).

– Kiểm tra xe thường xuyên để tránh hiện tượng các vật dễ cháy vướng vào hệ thống xả của động cơ.

Nguyên Mi

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120517/chay-xe-may-xang-dom-khong-ngoai-pham.aspx

 

Kết luận nguyên nhân cháy xe chưa thuyết phục

Kết luận nguyên nhân cháy xe chưa thuyết phục

27/04/2012 3:36

 
 

Tuy đã kết luận xăng dầu chất lượng kém không liên quan đến các vụ cháy xe trong thời gian qua nhưng cơ quan chức năng khẳng định việc điều tra nguyên nhân, trong đó có sự liên quan đến xăng dầu vẫn tiếp tục.


Xe khách bị cháy – Ảnh: Thúc Giáp

Hôm qua 26.4, tại Hà Nội, liên bộ Công an, Khoa học – Công nghệ (KH-CN), Công thương và GTVT đồng tổ chức họp báo công bố kết quả thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các biện pháp phòng chống cháy nổ ô tô, xe máy.

Từ Hyundai, Daewoo, BMW, Mercedes, Ford, Toyota đến Honda…

Theo thống kê của Bộ Công an, từ 2010 đến nay cả nước đã xảy ra 439 vụ cháy, nổ phương tiện, trong đó, chỉ tính trong 3 tháng đầu năm nay đã xảy ra 115 vụ. Xe cháy thuộc thương hiệu của hầu hết các hãng nổi tiếng, từ Hyundai, Daewoo, BMW, Mercedes, Ford, Toyota đến Honda…

Thiếu tướng Trần Anh Dũng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội (Tổng cục VII) – Bộ Công an cho biết, qua điều tra các vụ cháy đã xác định 5 nguyên nhân chính gồm: chập điện, sự cố kỹ thuật, sơ suất, TNGT và do đốt. Ngoài ra còn có một số vụ cháy có hiện tượng bất thường như dừng xe tắt máy tự nhiên nổ và cháy; xe chết máy tháo bugi phụt lửa gây cháy; xe đang chạy bị tắt máy, khởi động lại gây cháy nổ.

Các vụ cháy được điều tra năm 2010 và 2011 có 30,25% số vụ là do chập điện, 15,1% do sự cố kỹ thuật, 9,8% do sơ suất, 4,63% do TNGT và 4,32% do đốt. Trong 25 vụ xảy ra 3 tháng đầu năm nay đã làm rõ nguyên nhân có 9 vụ do chập điện, 6 vụ do sơ suất, 5 vụ do sự cố kỹ thuật, 4 vụ do TNGT và 1 vụ do đốt.

Trong các nguyên nhân kể trên, “sự cố kỹ thuật” được dư luận đặc biệt quan tâm và nhiều PV có mặt tại cuộc họp báo đã đề nghị giải thích rõ hơn, nhưng đại tá Nguyễn Văn Tươi – Cục phó Cục Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ (PCCC và CNCH), nói: “Đối với các vụ do kỹ thuật, chúng tôi không tiếp tục truy nguyên cũng như lý do tại sao dẫn đến sự cố kỹ thuật. Còn trách nhiệm thì Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chỉ đạo các bộ ngành yêu cầu các ngành, đơn vị sản xuất nghiên cứu xem thiết kế kỹ thuật của mình có gì không phù hợp với nhiên liệu sử dụng cũng như gây ra sự cố”.

Về nguyên nhân “chập điện”, đại diện Bộ Công an cũng chỉ thông tin: “Dấu vết để lại khẳng định do chập điện, nhưng không xác định được chập điện do đâu. Tuy nhiên nguyên nhân chập điện có thể xuất phát từ việc mất khả năng cách điện của các dây dẫn do côn trùng cắn, hóa chất”.

Những mẫu xăng dầu đáng ngờ


Đại diện các bộ ngành trả lời báo chí

Tại buổi họp báo, đại diện của 4 bộ ngành đều thừa nhận, dư luận hiện đang tập trung nghi ngờ xăng dầu kém chất lượng gây ra cháy nổ phương tiện nhưng đến nay chưa có cơ sở nào để “kết tội” cho tác nhân này.

Theo ông Trần Văn Vinh, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Bộ KH-CN, qua lấy 56 mẫu liên quan đến cháy xe, gồm 16 mẫu ở xe bị cháy và 40 mẫu từ cây xăng nơi chủ xe đã mua cho thấy đều phù hợp với tiêu chuẩn. “Do vậy, chưa có bằng chứng xăng dầu là nguyên nhân trực tiếp gây ra cháy nổ xe trong thời gian qua”, ông Vinh nói.

Mặc dù vậy, đại diện cho Bộ KH-CN cũng cho rằng, trong một số điều kiện nhất định đã phát hiện ra xăng dầu kém chất lượng có thể là nguyên nhân gián tiếp gây ra cháy xe. Cụ thể, là khi xăng dầu có pha hàm lượng ethanol hoặc methanol cao, gây lão hóa đường ống dẫn nhiên liệu, gioăng cao su dẫn đến bị rò rỉ nhiên liệu tạo ra khả năng cháy nổ khi có nguồn nhiệt cao. Mặt khác, đối với phương tiện máy hiện tại sử dụng nhiên liệu không phù hợp, đặc biệt là chỉ số Rol thấp như A83 gây nóng động cơ hơn bình thường, dẫn đến khả năng nóng chảy một số chi tiết và có thể gây chập điện, tạo nguồn nhiệt lớn và sẽ gây cháy nếu trường hợp nguồn nhiệt nóng tiếp cận với vật liệu dễ cháy như nhựa, ống dẫn gây điện.

Đáng chú ý, báo cáo của Bộ KH-CN cho biết trong số 704 mẫu xăng dầu bán trên thị trường được đưa đi thử nghiệm năm 2011 có tới 150 mẫu (21%) không đạt chất lượng về trị số octan và methanol. Đầu năm 2012, trong số 541 mẫu xăng và 128 mẫu dầu diezel được lấy đi thử nghiệm, có 60 mẫu xăng và 17 mẫu dầu không đạt chất lượng. Bộ Công thương trong báo cáo của mình cũng nhìn nhận từ đầu năm đến nay, qua kiểm tra hơn 3.300 lượt tại các cây xăng dầu trong cả nước đã phát hiện 818 vụ vi phạm gồm cả chất lượng, đo lường, quản lý…


Một vụ cháy xe máy tại Hà Nội – Ảnh: Thái Sơn

Chỉ là kết luận ban đầu

Tham dự buổi họp báo với tư cách là một chuyên gia, PGS-TS Hoàng Mạnh Hùng, Giám đốc Trung tâm tư vấn, giám định dân sự bày tỏ, cháy xe đang là một vấn nạn lớn được rất nhiều người dân quan tâm, trong đó có nghi vấn lớn về chất lượng xăng dầu, tuy nhiên những kết luận ngày hôm nay vẫn chưa thể thỏa mãn được người dân.

Nhiều PV đã thẳng thắn đặt vấn đề về tính khách quan của kết luận. Hơn 400 vụ cháy trong thời gian qua Bộ KH-CN chỉ có thể lấy được 16 mẫu nhưng đã kết luận về sự vô can của xăng dầu? Tỷ lệ điều tra nguyên nhân các vụ cháy của Bộ Công an cũng chỉ đạt ở mức rất thấp, trong năm 2010 và 2011 vẫn còn trên 35% số vụ chưa rõ nguyên nhân, 3 tháng đầu năm nay vẫn còn trên 78% số vụ chưa có kết quả thì việc công bố các nguyên nhân liệu đã chính xác?

Trước những thắc mắc trên, thiếu tướng Trần Anh Dũng nói đây mới chỉ là những kết luận ban đầu, việc điều tra nguyên nhân, trong đó có sự liên quan đến xăng dầu vẫn tiếp tục.

CÁC CHUYÊN GIA NÓI GÌ?

“Có vẻ như người ta muốn giấu giếm điều gì đó”

TS Đinh Ngọc Ân, Trưởng khoa Cơ khí động lực (ĐH Sư phạm Hưng Yên) cũng không tán đồng với kết luận chưa có bằng chứng cháy nổ do xăng dầu. TS Ân chia sẻ: “Tôi không tin những số liệu mà nhóm nghiên cứu đã đưa ra. Xăng dầu là mặt hàng nhạy cảm, DN nhà nước chiếm thị phần cao và có thể động chạm đến nhiều người nên khi tôi dự hội thảo về chất lượng xăng dầu do Liên hiệp Các hội KHKT tổ chức ngày 25.4 vừa qua có người khuyên đừng nói nhiều đến nguyên nhân cháy nổ do xăng dầu. Có vẻ như người ta muốn giấu giếm điều gì đó”.

Theo TS Ân, trước một vấn đề nóng, bức xúc của dư luận, đề tài cấp nhà nước tìm ra nguyên nhân cháy nổ xe phải đợi 1 năm nữa, bản thân lý do đó là một sự trì hoãn. Một đề tài khoa học cấp nhà nước không dưới 7 tỉ đồng, nhưng nếu giao cho các nhà khoa học giám định độc lập, chỉ cần 300 triệu có thể tìm ra kết quả nhanh chóng.

T.Hằng (ghi)

Honda Việt Nam: “Chưa phát hiện lỗi kỹ thuật”

Ông Hideaki Ueno, Phó tổng giám đốc Honda VN cho biết: “Trong các vụ xe cháy có liên quan đến sản phẩm của Honda VN, chúng tôi chưa phát hiện trường hợp nào có nguyên nhân từ chất lượng và đặc tính kỹ thuật của sản phẩm”.

Chí Nhân (ghi)

“Nghe kết luận mà thấy buồn”

Bình luận về kết luận của các bộ ngành cho rằng xăng dầu không phải là nguyên nhân cháy nổ xe, PGS-TS Hoàng Mạnh Hùng, Giám đốc Trung tâm giám định dân sự nói: “Nghe kết luận mà thấy buồn. Dường như họ đang “lãnh cảm” với nhân dân quá”. Theo ông Hùng, 56 mẫu mà Bộ KH-CN lấy từ xe cháy và một số cây xăng chưa đủ để khẳng định chưa có bằng chứng đây là tác nhân gây cháy xe.

Đề cập đến đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về các vụ cháy nổ, trong đó có nghiên cứu về chất lượng xăng dầu do Viện Hóa học công nghiệp thực hiện dưới sự chủ trì của Cục Đăng kiểm phải 1 năm nữa mới cho ra kết quả, PGS-TS Hoàng Mạnh Hùng cho hay: “Xăng là hỗn hợp các hydrocacbon, được chưng cất, chế biến từ sản phẩm dầu mỏ. Trong xăng có khoảng hơn 100 chất khác nhau. Ai cũng biết, nghiên cứu khoa học không thể nôn nóng, nhưng không đến mức phải cần đến 1 năm mới có kết quả. Nếu tập trung vào làm, với tinh thần trách nhiệm cao, chỉ vài tháng là ra ngay. Quan trọng là họ có tích cực làm không. Để tình trạng này tiếp tục kéo dài là quá chậm trễ, không chấp nhận được”.

T.Hằng (ghi)

 

Chẳng thấy cơ quan chức năng điều tra

Chiều 26.4, nghĩa là kém 3 ngày nữa là tròn 4 tháng xảy ra vụ cháy chiếc ô tô Getz BKS 33M-4171, anh Nguyễn Phúc Xuyên (SN 1970, nhà ở thôn Chi Quan 2, thị trấn Liên Quan, H.Thạch Thất, TP.Hà Nội), chủ nhân của chiếc xe trên vẫn không được cơ quan hữu trách liên lạc để làm rõ nguyên nhân gây cháy.

Theo lời anh Xuyên, cũng sau gần 3 tháng chiếc xe bị cháy, do không thấy cơ quan chức năng nào tìm tới nhà anh để đem chiếc xe đi giám định, hay hỏi han về những vấn đề có liên quan, nên gia đình anh đã quyết định gọi những người thu mua sắt vụn tới để bán phần khung sắt còn lại của chiếc ô tô này với giá… 1 triệu đồng.

Tương tự, trường hợp của chị Trịnh Thanh Hằng (SN 1971, nhà ở số 66 Hàng Cót, P.Hàng Mã, Q.Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội), chủ nhân chiếc xe máy tay ga hiệu Yamaha Cygnus BKS 29P1-2078. Trao đổi với Thanh Niên vào chiều 26.4, chị Hằng cho biết, từ khi xe bị cháy tới giờ, vẫn không thấy phía cơ quan chức năng nào tìm chị để làm rõ nguyên nhân khiến chiếc xe của chị bị bốc cháy vào giữa đêm khuya, khi để dưới sân nhà. Trước đó, khoảng 3 giờ 30 sáng 26.12.2011, những người hàng xóm có nghe một tiếng nổ “bụp”, kế đến là chiếc xe máy của chị Hằng để chính giữa sân phát hỏa. Sau khi vụ việc xảy ra, sáng cùng ngày, chồng chị Hằng là anh Tạ Việt Dũng đã mang đơn trình báo tới Công an P.Hàng Mã. Cùng ngày hôm đó, lực lượng Công an P.Hàng Mã đã xuống hiện trường để kiểm tra và thu thập thông tin từ những người có liên quan. Tuy nhiên, những ngày sau đó, do không thấy Công an P.Hàng Mã xuống đem chiếc xe đi giám định, trong khi nhà chật chội, mùi xe cháy bốc ra rất khó chịu, nên chị Hằng đã gọi taxi tới đem xe ra thợ để bán. Được biết, trước thời điểm chiếc xe bị cháy, chị Hằng vẫn dùng chiếc xe này đi lại bình thường.

 

Hiện trường chiếc xe bị cháy của anh Xuyên – Ảnh: Nam Anh

Hà An

Thái Sơn

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120427/ket-luan-nguyen-nhan-chay-xe-chua-thuyet-phuc.aspx

 

Post Navigation