THƯ NGỎ GỬI GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II – Trần Chung Ngọc
THƯ NGỎ GỬI GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II
Ngày 10 tháng 5, 1984
Bangkok, Thái Lan
Thưa Ngài,
Đất nước này mà Ngài sẽ đến, quỳ xuống và hôn nó, là đất nước Phật Giáo, một đất nước mà nền độc lập của nó đã được những tổ tiên người Thái bảo vệ với mạng sống của mình, một đất nước chưa từng bị lấy làm thuộc địa. Ngay cả trong thời đại mà những thế lực thực dân Tây phương toan tính chiếm nó làm thuộc địa, quần chúng đã đoàn kết xung quanh Vua của họ và đã có thể bảo toàn được sự tự do của đất nước và Thái Lan đã không trở thành thuộc địa của những giống người hiếu chiến tự nhận là văn minh.
Đất nước này là đất nước của hòa bình và an sinh. Dưới ảnh hưởng của giáo lý Phật Giáo, đất nước này chưa từng biết đến một cuộc “chiến tranh tôn giáo” nào dưới bất cứ hình thức nào, chưa từng làm đổ một giọt máu để bảo toàn quốc giáo. Điều này không thể có với các tôn giáo khác.
Đức Phật đã truyền bá giáo lý của Người bằng những phương tiện hòa bình. Người dạy các đệ tử phải dùng thiện để thắng ác, thể hiện lòng từ bi đối với những người đang đau khổ trên thế giới và chỉ cho họ con đường chân thật để diệt khổ.
Mọi đệ tử của Phật, với lòng từ bi và không mong ước một ân thưởng nào, đều vững tin là nhiệm vụ của mình là mang ánh sáng đến cho con người, dạy họ con đường thoát khổ và đạt chân hạnh phúc, nghĩa là Niết Bàn. Ra lệnh của các tôn giáo khác cho các nhà truyền giáo tiến lên và cải đạo các quốc gia vào đức tin của mình chưa bao giờ là động cơ thúc đẩy các nhà truyền giáo Phật Giáo.
Chúng tôi, các Phật tử, vững tin là Phật Giáo thật thanh khiết. Phật giáo có đầy những lý lẽ thách đố những người có đầu óc. Phật giáo không cần đến tuyên truyền hay lùa bất cứ ai vào niềm tin của Phật giáo để tăng thêm số tín đồ như là một tôn giáo nào đó thường thèm khát tín đồ.
Vì những lý do này, người dân Thái mà đất nước này là của họ đã bảo đảm tự do cho mọi tôn giáo và sự thuyết giảng giáo lý của tôn giáo. Sự tự do lớn lao này đã có từ triều đại của Đại Đế Narai, khi mà các thừa sai đầu tiên đến Thái trong sự bao che của triều đình.
Khi Giê-su Ki Tô dạy các đệ tử “Nếu ai tát các con má này thì hãy đưa nốt má kia ra”, ông ta đã cổ vũ sự sử dụng phương tiện hòa bình. Lẽ dĩ nhiên điều này phải được áp dụng trong sự truyền bá đạo của Ngài.
Thật là đáng tiếc, ở đây, những tín đồ của Giê-su Ki-Tô, bằng những hành vi bất xứng, đã luôn luôn phản bội lời dạy tuyệt tác trên. Họ đã xảo quyệt nhận vơ những niềm tin, cách hành đạo, và lễ tiết của Phật Giáo là những niềm tin và hành đạo của Ki Tô Giáo. Họ đã cố ý và trắng trợn xuyên tạc những nguyên lý của Phật Pháp và chê bai Tam Bảo bằng cách nhận vơ là Tứ Diệu Đế và Lý Duyên Khởi của Đức Phật là được Thiên Chúa của họ mạc khải cho, do đó Đức Phật chỉ là một nhà tiên tri hay nô lệ của Thiên Chúa, được huấn thị để sửa soạn những người dân Á Đông vào Ki Tô Giáo hay sửa soạn con đường để cho con người theo Giê-su.
Tôi không nghĩ là hành động vô đạo đức này lại bắt nguồn từ chính sách Đối Thoại và Truyền Giáo của Công Đồng Vatican II vì nó không được thân thiện cho sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo. Tôi hiểu rằng Ngài không biết đến cũng như không muốn tình trạng này xảy ra.
Cùng sống với nhau như là bạn hay để có hòa bình thực sự trên thế giới, cần phải có sự lương thiện và thành thực hỗ tương, chứ không phải là đạo đức giả.
Đất nước hòa bình này không muốn bất cứ ai, bất kể họ là người nào, miệng thì nói hòa bình nhưng những hành động thì lại làm nhơ bẩn dấu vết của nụ hôn trên đó.
OPEN LETTER TO POPE JOHN PAUL II
Bangkok, Thailand
10 May, 1984
Your Holiness,
This land which Your Holiness will kneel down and kiss on your arrival is a Buddhist land, a land whose independence our Thai ancestors have defended with their lives, a land which has never been colonized. Even during the time when the Western colonialists sought to take her as their possession, the people centred about their King were able to preserve her freedom and she did not become a colony of those war-thirsty races who called themselves civilized.
This land is a land of peace and well-being. Under the influence of the ancient Buddhist teaching she never known a “religious war” in any form, has never spilled a drop of blood to preserve the national religion. The same cannot be said to other religions.
The Lord Buddha spread his teaching by peaceful means. He taught his disciples to overcome evil by good, to show mercy and kindness to the suffering citizens of the world and he tried to show them the true way to relieve suffering.
Every disciple of the Buddha, with loving kindness and without hope of reward, holds it to be his duty to bring light to people, to teach the way to end suffering and achieve true happiness or Nirvana. The injunction of the teachers of other religions to go forth and convert the nations of the world to their faith never motivated the teachers of Buddhism.
We, Buddhists, firmly believe that Buddhism is pure. It is full of reasons which are challenging to people with common sense. It does not need propaganda or luring anybody to believe in it in order to increase the number of followers as practised in certain religion which is craving for followers.
For these reasons, the Thai people to whom this land belongs have given the greatest freedom to all religions and to the teaching of religion. This great freedom has endured since the reign of King Narai the Great when the firsts missionaries came under royal protection.
When Jesus Christ taught his disciples “If anyone strikes on the right cheek, turn to him the other also”. he was exhorting the use of peaceful means. Surely this must apply to the propagation of your religion.
It is regrettable that, here, followers of Jesus Christ by improper conduct have continually betrayed this excellent teaching. They have artfully claimed the beliefs, practices and ceremonies of Buddhism as Christian beliefs and practices. They have clearly and intentionally distorted the principles of the Dhamma and denigrated the Triple Gem by falsely claiming that Lord Buddha’s Four Noble Truths and the Dependent Origination were revealed by the Christian God of whom the Lord Buddha was merely a prophet or slave who had been instructed to prepare the peoples of the Orient for Christianity or to prepare the way for Jesus who was to follow.
I would not like to think that this immoral action stems from the Dialogue and Mission policy of the Vatican Council II because it is inimical to the peaceful co-existence of religions. I understand that Your Holiness is neither aware of nor desires this state of affairs.
To live together as friends or to have true peace in the world, there must be mutual honesty and sincerity, not hypocrisy.
This land of peace does not want anyone, whoever he be, whose mouth talks of peace but whose actions are otherwise to sully the mark of the kiss.
Sathienpong Wannapok
* * *
Phân tích tài liệu trên chúng ta có thể biết được vài điều về lịch sử và rút kinh nghiệm cho Việt Nam.
Trước hết, Thái Lan bảo toàn được độc lập và tự do của đất nước là vì người dân đã đoàn kết xung quanh Vua của họ và đã thành công trong việc chống lại mưu toan thuộc địa hóa Thái Lan của các thế lực thực dân hiếu chiến Tây phương.
Trông người lại nghĩ đến ta, trong bài Thiên Hạ Đại Thế Luận, tên tay sai đắc lực của Pháp là Nguyễn Trường Tộ đã xuyên tạc lịch sử, hù dọa vua quan ta bằng lời tâng bốc các nước phương Tây sai sự thực lịch sử “Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ …Xiêm La (Thái Lan)… Cao Ly (Hàn quốc), Nhật Bản, Trung Quốc….”, và những tài liệu lịch sử ngày nay đã chứng tỏ một sự kiện bất khả phủ bác là “Không có sự tiếp tay và phản bội của giáo dân Việt Nam thì nước Pháp không thể chiếm được Việt Nam làm thuộc địa.”. Thật vậy, chính giám mục Puginier đã nói rõ hơn ai hết vai trò phản quốc của giáo dân Việt Nam như sau, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:
“Giám Mục Puginier viết rằng: “Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại.”
(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d’ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l’impossibilité d’agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)
Đây là một vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trên khuôn mặt của giáo hội Ca Tô hoàn vũ nói chung, giáo hội Ca Tô Việt Nam nói riêng. Vì lời thú nhận của giám mục Puginier ở trên đã vạch trần vai trò gián điệp thực dân của các thừa sai Tây phương và vai trò phản quốc của giáo dân Việt Nam trên đất nước Việt Nam. [Độc giả có thể đọc thêm nhiều chi tiết về sự hỗ trợ quân xâm lăng Pháp của giáo dân Việt Nam trong những cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần; Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ; Thập Giá Và Lưỡi Gươm của Linh Mục Trần Tam Tĩnh; The Vietnam Response To French Intervention: 1862-1874 của Mark W. McLeod; Vietnam’s Will To Live của Helen Lamb; Catholic Imperialism Against The Asiatic Continent của Avro Manhattan; French Catholic Missionaries And The Politics Of Imperialism In Vietnam, 1874-1914 của Patrick J. N. Tuck; Annam-Tonkin 1885-1896 của Charles Fourniaux v..v..].
Cũng như lịch sử đen tối của Ca Tô Giáo Rô Ma vẫn muôn đời tồn tại trong lịch sử loài người dù gần đây giáo hoàng đã công khai xưng thú 7 núi tội lỗi của giáo hội, lịch sử ô nhục của giáo dân Việt Nam tiếp tay với thực dân Pháp để đưa đất nước vào vòng thuộc địa của Pháp cũng sẽ muôn đời tồn tại trong lịch sử Việt Nam, bất kể là giáo hội Ca Tô Việt Nam có xưng tội với với nhân dân Việt Nam hay không. Nếu giáo hoàng John XXIII đã thú nhận dấu ấn của Cain đã in đậm trên trán của giáo hội sau vụ Hitler, một tín đồ Ca Tô, giết 6 triệu người Do Thái, thì chúng ta có thể nói dấu ấn của Cain cũng đã in trên trán của giáo hội Ca Tô Việt Nam mà không sợ sai lầm.
Thứ đến, qua vài đoạn văn ngắn ngủi mô tả đức tính hòa bình và khoan nhượng của Phật Giáo, Tỳ kheo Sathienpong Wannapok đã chứng tỏ là những sắc thái này đối ngược với
với lịch sử đẫm máu và ô nhục của Ca Tô Giáo trong sách lược truyền đạo. Tuy Ngài không viết thẳng ra nhưng một độc giả có đôi chút kiến thức về lịch sử tàn bạo của Ca Tô Giáo Rô Ma đều hiểu Ngài muốn viết gì qua lối hành văn đối chiếu, nêu lên những trái ngược giữa hai tôn giáo. Trong thư ngỏ gửi giáo hoàng mà Ngài viết “Phật Giáo chưa hề làm đổ một giọt máu để truyền đạo” hay “Phật Giáo không hề có một cuộc chiến tranh tôn giáo nào” hay “Phật giáo không cần phải tuyên truyền hay lùa thêm tín đồ vào Phật giáo” v..v.. thì chúng ta phải hiểu là Ngài muốn nhắc lại cho Giáo hoàng là “đạo của ông đã làm đổ rất nhiều máu trong khi truyền đạo”, “đạo của ông đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo” , và “đạo của ông chỉ muốn kiếm thêm tín đồ bằng tuyên truyền và những thủ đoạn bất chính” v..v.. Nhắc để làm gì? Để chứng tỏ là bản chất của đạo Ca Tô là như vậy, ông không thể che dấu được ai trong thời đại này, và với lòng từ bi của một Tỳ Kheo thì đó là với hi vọng có thể khai sáng, chuyển hóa tâm tư của giáo hoàng để cho Giáo hoàng có thể trở thành lương thiện hơn trong sách lược truyền đạo của Vatican. Câu cuối cùng trong thư ngỏ nói thẳng là nụ hôn của giáo hoàng trên đất Thái chỉ làm nhơ bẩn đất nước Thái ra mà thôi.
Trong thư ngỏ, Tỳ kheo Sathienpong Wannapok chỉ nhắc sơ vài luận điệu thần học ma giáo của Ca Tô Giáo với mục đích xuyên tạc và hạ thấp Phật Giáo. Trong bài Nhận Định Bản Tông Huấn ở trên, tác giả Ngô Triệu Lịch đã phân tích kỹ những luận điệu ma giáo đó. Ở đây, tôi chỉ phân tích đoạn văn trong thư ngỏ:
Họ đã cố ý và trắng trợn xuyên tạc những nguyên lý của Phật Pháp và chê bai Tam Bảo bằng cách nhận vơ là Tứ Diệu Đế và Lý Duyên Khởi của Đức Phật là được Thiên Chúa của họ mạc khải cho, do đó Đức Phật chỉ là một nhà tiên tri hay nô lệ của Thiên Chúa, được huấn thị để sửa soạn những người dân Á Đông vào Ki Tô Giáo hay sửa soạn con đường để cho con người theo Giê-su.
Luận điệu “Đức Phật chỉ là một tiên tri (Ca Tô giáo dùng từ “Ngôn sứ”) được Thiên Chúa mạc khải v..v..” chỉ có thể lừa bịp được những đầu óc kém hiểu biết. Đối với giới trí thức có đôi chút hiểu biết về Ki Tô Giáo và Phật Giáo thì đó là một luận điệu hoang đường, lố bịch và ấu trĩ chưa từng thấy. Chứng minh?
Thứ nhất, một trong 10 danh hiệu của Đức Phật là “Thiên Nhân Sư”, nghĩa là bậc Thầy của Thiên Chúa và con người. Trong xã hội loài người có cả trăm Thiên Chúa khác nhau. Thiên Chúa của Ki Tô Giáo chỉ là một trong số hàng trăm Thiên Chúa này. [Xin đọc The History of God của Karen Armstrong; A World Full of Gods của Keith Hopkins; In God We Trust: But Which One? của Judith Hayes; Mythology’s Last Gods: Yahweh and Jesus của William Harwood; The Dark Side of God của Douglas Lockhart v..v..]
Nếu Đức Phật đã được tôn là bậc Thầy của các Thiên Chúa thì không thể nào lại là “ngôn sứ” của một Thiên Chúa, Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Ắt hẳn sẽ có người cho rằng sự tôn vinh Đức Phật như trên là của các Phật tử ca tụng giáo chủ của mình, cũng như tín đồ của các tôn giáo khác tôn vinh giáo chủ của họ, chứ không phải là sự thật. Không hẳn vậy. Vì chúng ta có thể thấy rõ vấn đề khi chúng ta đọc những lời Phật dạy trong ba tạng Kinh Luật Luận của Phật Giáo và những lời của Thiên Chúa Ki Tô Giáo trong Cựu Ước. Chúng ta thấy gì? Suốt trong ba tạng Kinh Luật Luận của Phật Giáo chúng ta chỉ thấy những giáo lý, từ dễ hiểu cho tới cao siêu, với mục đích hướng dẫn con người hướng thiện và hướng thượng để đạt tới giải thoát cho chính mình. Chúng ta không hề thấy một lời nói ác độc, một chuyện dâm ô, loạn luân, hay một chuyện giết người tàn bạo nào. Trái lại trong Cựu Ước, theo niềm tin Ki Tô Giáo thì đó là những lời mạc khải của Thiên Chúa Ki Tô Giáo, quá nửa là những chuyện giết người tàn bạo, ác độc, trả thù, dâm ô, loạn luân nhiều khi thủ phạm lại chính là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Vậy bằng cách nào mà một Thiên Chúa tàn bạo, ác độc, khát máu, vô đạo đức như được mô tả trong Cựu Ước lại có thể mạc khải cho một bậc từ bi như Đức Phật mà giáo lý của Người, chúng ta đã biết, hoàn toàn trái ngược với những lời mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh? Cho nên, danh hiệu “Thiên Nhân Sư” của Đức Phật hoàn toàn đúng, vì bậc Thầy như Đức Phật là bậc đạo đức cao cả, trí tuệ thông suốt, để cho chúng sinh lấy đó làm tấm gương soi vào để noi theo. Còn Thiên Chúa của Ki Tô giáo chỉ là đối tượng của một đức tin không cần biết không cần hiểu, cho nên bản chất không khác gì thần hà bá, thần cây đa, thần bình vôi v..v.. Nhưng chúng ta nên hiểu rằng, bậc Thầy dạy giáo lý, đạo đức v..v.. là một chuyện, mà chúng sinh, gồm có Thiên Chúa và con người, có theo được những lời dạy của Đức Phật hay không lại là chuyện khác. Tất cả đều tùy thuộc căn trí và duyên của Thiên Chúa cũng như của con người.
Đối với những nhà truyền giáo nói lên luận điệu thần học ma giáo để hạ thấp Đức Phật như trên, chúng ta chỉ cần đặt trước mặt họ cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo và bất cứ cuốn Kinh Phật nào rồi bảo họ hãy giải thích sự trái ngược về luân lý và đạo đức chứa trong hai cuốn sách trên, và hãy so sánh tư cách, trí tuệ của Đức Phật với tư cách và trí tuệ của Thiên Chúa trong Thánh Kinh.
Mặt khác, chúng ta không nên quên, cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll, Ingersoll The Magnificent (Lewis, p. 110) đã đưa ra nhận định sau đây về Ki Tô Giáo và Thiên Chúa của họ:
“Nếu Ki Tô Giáo chỉ ngu đần và phản khoa học, nếu Thượng Đế của Ki Tô Giáo chỉ dốt nát và có lòng tốt, nếu Ki Tô Giáo hứa hẹn cho các tín đồ một sự hỉ lạc vĩnh hằng, và nếu các tín đồ thực hành hạnh tha thứ mà Ki Tô giáo răn dạy, thì tôi là người chẳng đụng gì đến tín ngưỡng của họ.
Nhưng Ki Tô Giáo còn có một mặt khác. Tôn giáo này không chỉ ngu đần mà còn lắt léo, không chỉ phản khoa học mà còn vô nhân tính. Thượng đế của tôn giáo này không chỉ dốt nát mà còn vô cùng ác độc. Tôn giáo này không chỉ hứa hẹn cho tín đồ một phần thưởng vĩnh hằng mà còn khẳng định rằng hầu hết mọi người (không phải là tín đồ. TCN) đều bị giam cầm trong những tòa hình ngục của Thượng đế và sẽ bị vĩnh viễn đau đớn. Đó là sự man rợ của Ki Tô Giáo.”
(If Christianity were only stupid and unscientific, if its god was ignorant and kind, if it promised eternal joy to believers, and if the believers practiced the forgiveness they teach, for one I should let the faith alone.
But there is another side to Christianity. It is not only stupid, but malicious. It is not only unscientific, but it is heartless. Its god is not only ignorant, but infinitely cruel. It not only promises the faithful an eternal reward, but declares that nearly all of the children of men, imprisoned in the dungeons of god will suffer eternal pain. This is the savagery of Christianity.)
Vậy chúng ta hãy tự hỏi, một Thiên Chúa như vậy có thể nào lại là đấng “mạc khải” cho Đức Phật, một vĩ nhân của nhân loại mà tư cách và đạo đức đã được cả thế giới tôn sùng, khoan nói đến chuyện vượt xa Thiên Chúa cũng như Giê-su trong Thánh Kinh, và một tôn giáo như Ki Tô Giáo có đáng để cho chúng ta chui đầu vào làm nô lệ cho một đám người gian manh, vô cùng bất lương trong sách lược truyền đạo?
Thứ nhì, mọi luận điệu thần học của Ca Tô Giáo dùng để truyền đạo đều dựa trên một giả định (assumption) là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo hiện hữu. Họ đưa ra lý luận là “Nếu không ai chứng minh được Thiên Chúa của họ không hiện hữu tất nhiên Thiên Chúa của họ phải hiện hữu”. Lý luận này ngớ ngẩn vì việc chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa là việc của những người tin rằng có Thiên Chúa. Tôi không tin có Thiên Chúa thì việc gì tôi phải chứng minh là không có Thiên Chúa. Nếu ông muốn tôi tin là có Thiên Chúa thì hãy chứng minh cho tôi là Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Điều này chưa có một nhà thần học nào hay một chức sắc Ki Tô Giáo nào làm được và họ chỉ có thể dạy những người trong óc thiếu neuron là hãy cứ tin vào những điều không đáng tin. Trong một phần trên, tôi đã đưa ra vài tài liệu cập nhật nhất của giới trí thức Tây phương về nền thần học Ki Tô Giáo: đó là một nền thần học không có chủ đề, những nhà thần học không biết là mình nói cái gì, và John Remsburg đã cho rằng “Đối với giới trí thức, nền thần học Ki Tô Giáo trên thực tế đã chết”. Thật vậy, tất cả những luận cứ thần học của Ki Tô Giáo để biện minh cho sự hiện hữu của một Thiên Chúa sáng tạo như được viết trong Thánh Kinh ngày nay đã bị phủ bác dứt khoát. Chúng ta có thể kể những luận cứ thần học về Bản Thể (Ontological argument) của Anselm, Thomas Aquinas, René Descartes; về vũ trụ (Cosmological argument) của Thomas Aquinas; về Cứu Cánh (Teleological argument hay Design argument) của William Paley; về đạo đức (Moral argument) của Hastings Rashdall v..v.. Tất cả những luận cứ thần học trên đã không còn chỗ đứng trong giới trí thức Tây phương và sự hiện hữu của một Thiên Chúa của Ki Tô Giáo chỉ còn sót lại trong những đầu óc không đội trời chung với khoa học, triết lý, và lý trí.
Kết luận, luận cứ thần học của Ca Tô Giáo trong mưu toan hạ thấp Đức Phật xuống hàng ngôn sứ của Thiên Chúa là một luận cứ lố bịch, lừa bịp những kẻ ngu dốt, có thể xếp vào loại những luận cứ ma giáo của Ca Tô Giáo, không có một căn bản thuyết phục nào.
Thứ ba, nói rằng giáo lý của Đức Phật là để sửa soạn cho dân Á Châu tiếp nhận vai trò cứu rỗi của Giê-su, đấng cứu thế, là nói càn, nói ẩu, thuộc loại “cưỡng từ, đoạt lý”. Vì đạo Phật là đạo của trí tuệ. Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama đã bác bỏ dứt khoát mọi sự tin nhảm nhí, tin bướng tin càn, tin mà không hiểu, tin mà không thể chứng nghiệm vào chính bản thân ngay khi còn sống. Trái lại, đạo Giê-su là đạo của đức tin, tin mà không cần biết không cần hiểu, như ông trí thức Ca Tô Đỗ Mạnh Tri đã khẳng định trong cuốn Ngón Tay và Mặt Trăng. Đạo Giê-su là đạo dựa trên một tín lý ác ôn, vô nghĩa và hoang đường: “Ai tin Giê-su thì sẽ được Giê su cứu rỗi, lẽ dĩ nhiên sau khi chết, cho lên thiên đường (mù), còn ai không tin sẽ bị đày hỏa ngục (ma) vĩnh viễn”. Vậy theo lý luận thần học của Ki Tô Giáo, Đức Phật sửa soạn cho dân Á Châu đi giật lùi, đi từ lý trí xuống phi lý trí, đi từ tự tu tự chứng xuống hàng tin bướng tin càn hay sao? Điều này không thể có được và người con Phật không bao giờ chấp nhận chiều hướng tụt hậu, làm mất phẩm giá con người, đi giật lùi này.
Thật ra, những luận điệu thần học ma giáo ở trên chỉ là sản phẩm diễn giải lắt léo của những đầu óc bệnh hoạn, cuồng tín, hạ căn chứ không hề có xuất xứ từ Thánh Kinh. Không ai có thể tìm thấy trong Thánh Kinh bất cứ một chi tiết nào nói về sự mạc khải của Thiên Chúa, nếu thực sự có một Thiên Chúa, cho Đức Phật. Nhưng vấn đề ở đây là những luận điệu thần học lắt léo ma giáo đó chỉ có thể lừa bịp được đám dân ít học chứ chúng vô dụng đối với những người có đôi chút hiểu biết. Mặt khác, nếu chúng ta nghiên cứu kỹ về Ki Tô Giáo thì chúng ta sẽ thấy không có gì là của Ki Tô Giáo cả, tất cả chỉ là vay mượn, bắt chước, xào xáo những niềm tin hay giáo lý đã có trong dân gian làm của riêng cho Ki Tô Giáo. Chúng ta hãy đọc tài liệu sau đây của Linh Mục Kirati Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn, Thái Lan:
Niềm Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo:
Sao Chép Và Mô Phỏng
“Cho đến bây giờ (1985), không ai thật sự biết đúng ngày sinh và ngày chết của Giê-su. Tất cả chỉ là đoán mò. [Ngô Triệu Lịch đã gọi nền thần học Ki Tô Giáo là nền thần học đoán mò]. Ngày sinh vào 25 tháng 12 là lấy của người La Mã. Người La mã ăn mừng ngày sinh của Thần Mặt Trời vào ngày 25 tháng 12. [Thật ra, dây không phải là ngày lễ riêng của dân La Mã mà là ngày mà nhiều nơi trong dân gian cổ xưa ăn mừng ngày bắt đầu lại dài ra sau một mùa Đông mà họ thấy ngày cứ ngắn dần và lo sợ không còn ánh sáng mặt trời nữa]. Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể sao chép và mô phỏng các tôn giáo khác. Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ?..
Hơn nữa, Giê-su cũng không có một hệ thống giáo lý của chính mình. Giê-su mô phỏng những điều trong Cựu Ước. Giê-su không thiết lập một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức cho Ki Tô Giáo. Do đó, Ki Tô Giáo không hề có một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của Ki Tô Giáo để có thể phô trương trước các tôn giáo khác. Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình, đó là điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của chúng ta ngày nay đều là sao chép và mô phỏng từ ngôn ngữ và văn hóa của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, là những chuyên gia về kỹ thuật xảo trá…”
The Proud of Christianity: Borrowing and Imitation
…Up to now, no one actually knows the exact dateof birth and date of death of Jesus Christ. Everything is merely the matter of guess. Christmas on 25 December was borrowed from Roman. Roman celebrated the Birth of Sun God on 25 December. Christianity possesses nothing of its own. Christianity can only borro and imitate others. Is it shameful? Why Christianity have to shame?..
Moreover, Jesus Christ also had no own syatem of teaching. Jesus imitated those of the Old Testament… Jesus did not establish philosophical syatem, school of art and official language for Christianity. Therefore, Christianity possesses no Christian philosophy, art and official language in order to show to others. Never having any authentic thing of its own is the only thing Catholics can show off.. We, Catholics, delightfully accept that our present philosophy, art and official language are borroed and imitated from the language and culture of the lands where Christianity has grown. We, Catholics, are experts in manipulation..
(Lecture of Father Kirati Boonchua, Professor of philosophy at the Faculty of Arts, Chulalongkorn University) in “Life Review” a Catholic program in Bangkok, broadcasting on 8 December 1985)
Linh mục Kirati Boonchua nói thật hay nói chơi? Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Bản Tin số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican:
“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.”
(In the Buddhist countries, in order to make its own cultural garnment, the Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition and transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them to the life of the followers of Christ.)
Lấy cái hay của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm. Nhưng dùng kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò ăn cắp ma giáo, bất lương trí thức, và chỉ có một tôn giáo như Ca Tô Giáo mới có thể làm như vậy trong suốt chiều dài lịch sử của tôn giáo này. Một thí dụ điển hình của trò ma giáo này nằm trong Bản Tin số 10 trên:
“Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguồn gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ (Khổ,Tập, Diệt, Đạo). Tại sao sự truyền bá Phúc âm của Ki-Tô không thể cũng được thâu tóm trong bốn chân lý trên? Sự khổ chân thật của con người là tội. Giê-su đến để giải thoát con người khỏi khổ –tội. “
(The whole of Buddhism is based on the four thuths: sorrow, the cause of sorrow, the destruction of sorrow and liberation from sorrow. Why could not the spreading of the Gospel of Christ be summed up also in these four truths? The true sorrow of Man is sin. Jesus came to liberate Man from sorrow-sin.)
Chúng ta thấy ngay thủ đoạn xảo trá và bất lương của Ca Tô Giáo Rô Ma trong đoạn trên: xuyên tạc ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo, và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca Tô. Bốn chân lý cao thượng của Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày. Trong bài đầu, Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Tiến sĩ Phật học, đã vạch trần sự xuyên tạc của Mục sư Tống Tuyền Thịnh về ý nghĩa của “Khổ” trong Phật Giáo. Quan niệm về “Khổ” trong Phật Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường đã chuộc tội một cách hoang đường, trèo lên cây thập giá để cho người ta đóng đinh. Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v..v.. trong lịch sử Ca Tô Giáo thì nếu Giê-su đến để giải thoát, nếu một người chết cách đây đã 2000 năm thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho tín đồ những tội đó thì ai muốn tin cứ việc tin. Riêng tôi, tôi không thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo đức đó.
Với những sách lược và thủ đoạn ma giáo nằm trong những Bản Tin của Vatican mà tôi đã trích dẫn một phần nhỏ ở trên, nay chúng ta đã hiểu tại sao những Bản Tin của Vatican lại được lệnh phải giữ “mật, không được nêu xuất xứ, và không được phổ biến cho báo chí.”
*
* *
VÀI LỜI KẾT
Ngày nay, Ki Tô Giáo, dựa vào thế lực của các cường quốc Âu Mỹ, và nấp sau những chiêu bài như “đối thọai”, “hòa hợp tôn giáo”, “tự do dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để thúc đẩy chương trình bành trướng cải đạo Á Châu, một lục địa đông dân và tài nguyên phong phú. Không còn mấy giá trị đối với giới trí thức hiểu biết, mất dần ảnh hưởng trong những quốc gia văn minh tiến bộ, Ki Tô Giáo phải tìm đất sống ở những nơi tình trạng xã hội chưa ổn định, dân trí còn kém mở mang, và dân chúng còn nghèo khó, còn chịu nhiều bất công xã hội. Á Châu là miếng mồi ngon nhất, thích hợp nhất, từ đó nền “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” đã được đề xướng để thực hiện âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Ki Tô Giáo. Âm mưu này có thành tựu hay không, tất cả tùy thuộc chính sách giáo dục và tôn giáo của các chính quyền địa phương ở Á Châu.
Qua sự phân tích những chủ đề trong cuốn sách này, chúng ta đã biết rõ thực chất của cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” là như thế nào. Đó chẳng qua chỉ là một tập hợp những thủ đoạn truyền đạo xảo quyệt, bất chính, bất lương trí thức của những tổ chức thế tục mang danh tôn giáo. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ trước những phản ứng của Á Châu để đối phó với sách lược Cải Đạo Á Châu của Ki Tô Giáo.
Chúng ta đã biết ít nhiều về phản ứng của dân Thái Lan và Ấn Độ. Chúng ta cũng đã biết, Trung Quốc, Đài Loan, Sri Lanka, và Việt Nam đã từ chối, không chấp thuận lời xin của giáo hoàng John Paul II tới viếng thăm tín đồ trong các quốc gia này mà ai cũng biết mục đích là khuyến khích sự cuồng tín của các tín đồ, ngầm xúi họ gây loạn và xáo trộn trong những xã hội này qua lời dạy “đừng sợ”. Xin quý độc giả hãy tìm đọc cuốn Tôn Giáo Đối Chiếu, Tập III, của Trần Văn Kha, mới xuất bản tháng 2, 2003, trong đó có bài phỏng vấn Bác Sĩ David Frawley, một cựu tín đồ Ca Tô, để biết về quan điểm rất chính xác của ông về thực chất sách lược cải đạo Á Châu của Ca Tô Giáo là như thế nào.
Vấn đề của chúng ta ngày nay là phải xét xem giáo hội Ca Tô có thể làm được những gì với sách lược Cải Đạo Á Châu trong tương lai, và sách lược này có ảnh hưởng gì đến đất nước Việt Nam. Sách lược của giáo hội Ca-Tô cũng như Tin Lành, chúng ta đã rõ, do đó chúng ta cần có những biện pháp đối phó. Tại sao lại phải đối phó? Bởi vì KiTô giáo chưa hề thay đổi trong sách lược truyền đạo, và sách lược này luôn luôn xúc phạm đến các tôn giáo và các nền văn hóa truyền thống địa phương, như chúng ta đã thấy trong những phần phân tích ở trên. Ki Tô giáo không thể chấp nhận ý tưởng hòa hợp tôn giáo theo quan niệm đa tôn giáo bình đẳng trên thế giới. Đây là một thái độ nguy hiểm, phương hại đến nền hòa bình thế giới. Sau đây chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề.
Một thủ đoạn trong sách lược Cải Đạo Á Châu, như chúng ta đã biết, là dùng chiêu bài “đối thoại” và “tự do tôn giáo”, “hòa hợp tôn giáo” mà thực chất chỉ là những bình phong che đậy những âm mưu đen tối đàng sau. Ngay từ Công Đồng Vatican II, Giám Mục Emile de Smedt, phát ngôn viên của ủy ban soạn về đề mục tự do tôn giáo, đã đưa ra khuyến cáo về chính sách “đối thoại”, “tự do tôn giáo”, “hòa hợp tôn giáo” chỉ có trên mặt văn tự của Vatican trước Công đồng linh mục ngày 19 tháng 11 năm 1963 như sau:
“Nhiều người phi-Ca-Tô đã nuôi sự thù ghét đối với giáo hội, hay ít ra cũng nghi ngờ đó là một loại chủ thuyết Machiavelli (nghĩa là chỉ cần đạt được mục đích bất kể đạo đức. TCN), vì đối với họ chúng ta có vẻ như là khi ở thế thiểu số trong quốc gia nào thì chúng ta đòi hỏi phải được tự do tôn giáo nhưng cùng lúc lại từ chối hay tước bỏ cùng sự tự do tôn giáo đó của họ nếu chúng ta ở thế đa số.
Tại sao lại nói đến đối thoại với các người Ki-Tô khác, với người Do Thái, với tất cả những người phi-Ki-Tô (non-Christians) khi thực ra về lý thuyết cũng như thực hành, giáo hội Ca Tô Rô Ma không tôn trọng tự do của những người phi-Ca-Tô.
Bất cứ kế hoạch hòa hợp tôn giáo nào của giáo hội Ca Tô cũng sẽ hoàn toàn vô hiệu quả và hoàn toàn vô nghĩa trừ phi giáo hội tuyên bố rõ ràng và với thẩm quyền rằng giáo hội sẽ tôn trọng sự tự do của các tín ngưỡng khác, dù rằng giáo hội có quyền hành hay cơ hội có thể làm khác, và rằng giáo hội phải dựa trên căn bản tự do tôn giáo, lên án sự bất khoan dung, bách hại và kỳ thị .”
(Many non-Catholics harbor an aversion against the Church, or at least suspect it of a kind of Machiacellianism, because we seem to them to demand free exercice of religion when Catholics are in a minority in any nation and at the same time refuse and deny the same religious freedom when Catholics are in the majority.
Why speak about dialogue with other Christians, with Jews, with all non-Christians, if, in theory or in fact, the Roman Catholic Church does not respect the freedom of non-Catholic religions?
Every ecumenical “move” of the Catholic Church will be completely fruitless and devoid of any real meaning unless the Church states clearly and authoritatively that it will respect the liberty of other believers, even if it has the power or the occasion to do otherwise, and that it condemns intolerance, persecution and discrimination on grounds of religious liberty.)
Tuy nhiên, trong mấy chục năm qua, Vatican vẫn theo đuổi chính sách xâm lăng văn hóa và tôn giáo trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Á Châu và Phi Châu, qua những thủ đoạn không được lương thiện như đã được trình bày trong các phần trên. Nhưng tà không bao giờ có thể thắng được chánh, cho nên dù với tiền rừng bạc bể, với những đám tín đồ bản địa cuồng tín, với những phương tiện truyền thông rồi rào, tất cả những kế hoạch Cải Đạo Á Châu của Vatican cũng sẽ vô hiệu quả và trở thành hoàn toàn vô nghĩa, như giám mục Emile de Smedt đã báo động ở trên.
Tuy những kế hoạch Cải Đạo Á Châu của Ca Tô Giáo không có mấy hi vọng thành tựu, nhưng chúng ta không thể lơ là, coi thường những thủ đoạn của Giáo hội Ca Tô. Chúng ta không thể áp dụng hạnh từ bi một cách sai lầm theo nghĩa chỉ biết tụng Kinh niệm Phật, ngồi hít vào thở ra, tìm sự an lạc cho riêng mình, và để mặc cho Ca Tô Giáo tự do hoành hành, nô lệ hóa đầu óc người dân Việt, kéo người dân Việt xuống hàng súc vật (con chiên). Tinh thần Đại Thừa, Phật Giáo nhập thế ngày nay không cho phép chúng ta có thái độ như vậy khi chúng ta còn có nhiệm vụ đối với quốc gia dân tộc, nhiệm vụ bảo vệ nền văn hóa và tôn giáo dân tộc, nghĩa là Phật Giáo. Tôn giáo dân tộc nên hiểu là tôn giáo của tuyệt đại đa số người dân trong một quốc gia chứ không phải là tôn giáo duy nhất được chính thức công nhận trong quốc gia đó. Thí dụ, Ki Tô Giáo được coi là tôn giáo dân tộc của Mỹ tuy chỉ có khoảng 80% người Mỹ theo Ki Tô Giáo, trong đó có 25% là Ca Tô. Tuy vậy trên khắp nước Mỹ chúng ta thấy đầy dẫy những khẩu hiệu như “In God We Trust” hay “God Bless America” v..v.. Do đó, ở Việt Nam, phổ biến những biểu tượng của Phật Giáo như Hoa Sen, Cờ Phật Giáo, Chuyển Pháp Luân v..v.. đều không có gì là trái với lẽ thông thường và không có nghĩa Phật Giáo là tôn giáo duy nhất ở Việt Nam.
Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Khai sáng trí tuệ người dân, chuyển hóa để cho họ thấm nhuần giáo lý nhân bản, thiết thực, hòa bình, vị tha, vô thường, vô ngã v..v.. của Phật Giáo là mang niềm vui đến cho họ. Cứu họ ra khỏi vô minh, mê tín dị đoan, xiềng xích trí tuệ, tinh thần nô lệ ngoại nhân v..v.., đó chính là cứu khổ. Vì không hiểu ý nghĩa thực sự của từ bi nên những người Ca Tô thường lên án những ai viết ra những sự thực về Ca Tô Giáo là không áp dụng hạnh từ bi của Phật Giáo. Họ muốn rằng họ được quyền xuyên tạc Phật Giáo, mạ lỵ Tăng đoàn, và khi ở vị thế cầm quyền, được tự do giết người ngoại đạo, cưỡng bức cải đạo họ như dưới thời Ngô Đình Diệm. Ngược lại, họ muốn chúng ta phải áp dụng hạnh từ bi của Phật Giáo theo nghĩa họ muốn, nghĩa là không được viết ra những sự thật lịch sử hay những mánh mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ca Tô Giáo. Họ muốn khi họ tát vào má này của chúng ta thì chúng ta phải đưa má kia ra cho họ tát tiếp, áp dụng lời dạy của Giê-su, một lời dạy mà thực chất là nuôi dưỡng sự bất công, và chính họ chưa bao giờ áp dụng.
Sự nguy hại thật sự của kế hoạch Cải Đạo Á Châu của Ca Tô và Tin Lành là, do cái căn bản tự cho là một tôn giáo thiên khải và chỉ được thờ một Thần Ki Tô, và tin vào sự hứa hẹn của các nhà truyền đạo về một sự “cứu rỗi” của Giê-su, sách lược cải đạo có tính cách mê hoặc này cộng với sách lược hạ thấp, mạ lỵ các tôn giáo và nền văn hóa khác như vừa nêu ở trên, sẽ tạo nên một lớp người bản xứ vô não trở thành cuồng tín, tình nguyện làm nô lệ cho ngoại bang, sẵn sàng phản bội quốc gia để đổi lấy một cái bánh vẽ trên trời sau khi chết, do đó không tránh khỏi đưa đến những cảnh xáo trộn trong xã hội, bất hòa trong những khối tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia yêu chuộng hòa bình, đang sống hòa hợp trong tình tương thân tương ái giữa những đồng bào ruột thịt. Những điều này đã xảy ra ở Việt Nam từ khi các thừa sai Ca Tô đầu tiên xâm nhập Việt Nam để truyền đạo và tiếp tục xảy ra trong vài vùng cao nguyên, đã và đang xảy ra ở Ấn Độ, Thái Lan, ở Đông Timor, Nam Dương v..v…
Là một người “ngọn Mỹ, gốc Việt”, tôi quan tâm đến Việt Nam, và sau đây là những nhận định của tôi về sách lược Cải Đạo Á Châu của Vatican trên đất nước Việt Nam.
Dựa trên những sự kiện lịch sử trong quá khứ xa và gần, chúng ta có thể phần nào tiên đoán được sự thành công hay thất bại của sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Vatican tại Á Châu nói chung, Việt Nam nói riêng. Tôi tin rằng sách lược cải đạo của Ca-Tô Giáo tại Việt Nam sẽ thất bại bởi những lý do sau đây.
1). Trở lại lịch sử, Ca Tô Giáo xâm nhập vào Việt Nam từ 1533, và 140 năm sau, tới đầu thập niên 1670, các thừa sai Ca Tô mới khuyến dụ được khoảng 60000 người theo đạo, tuyệt đại đa số thuộc thành phần thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam (Xin đọc Catholicism et Sociétés Asiatiques của Yoshiharu Tsuboi), không có khả năng phân biệt chánh tà, chân giả cho nên rất dễ bị lùa vào trong vòng mê tín của Ca Tô Giáo. Sau đó, các thừa sai Pháp thuyết phục thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, mở đầu cuộc xâm chiếm bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng năm 1858. Sau khi tích cực giúp quân xâm lăng Pháp để đưa Việt Nam vào vòng đô hộ, Ca-Tô Giáo ở Việt Nam dựa vào thế lực thực dân để truyền đạo, làm mưa làm gió trên đất nước Việt Nam. Nhưng dù ở thế thượng phong, dưới cái dù của thực dân trong gần 100 năm, cộng với 9 năm miền Nam dưới chế độ độc tài, gia đình trị, Ca Tô trị của Ngô Đình Diệm, số tín đồ Ca-Tô trên tỷ lệ dân số luôn luôn chỉ ở mức 7 phần trăm hay ít hơn. Điều này chứng tỏ nền văn hóa Việt Nam không tương hợp với nền văn hóa Ki Tô. Vậy ngày nay, tất cả lợi thế về quyền lực thế tục của Ca-Tô Giáo đã không còn, ngoại trừ sức mạnh hữu danh vô thực hào nhoáng bên ngoài, Ca-Tô Giáo có cách nào để cải đạo người dân Việt Nam? Liệu chính quyền hiện nay có để cho họ tự do xâm nhập ào ạt vào Việt Nam để truyền đạo sau những chiêu bài đạo đức giả có tính cách lưỡng chuẩn (double standard) như nhân quyền và tự do tín ngưỡng một chiều hay không? Chúng ta cần phân biệt rõ ràng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do xâm nhập một quốc gia để truyền đạo. Hai quyền này hoàn toàn khác nhau.
2). Thời buổi này, không còn mấy người có đầu óc còn tin ở những chuyện hoang đường như “tội tổ tông”, “Chúa tình nguyện leo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Đức Mẹ đồng trinh”, “Giê-su chết ba ngày rồi sống lại và bay lên trời”, quyền phép “cứu rỗi” của Giê-su v..v.., kể cả một số giám mục, linh mục trong giáo hội. Khoa học với những bằng chứng bất khả phủ bác trong vũ trụ học, di truyền học, sinh học, sinh hóa học, cổ sinh vật học v..v.. cộng với thuyết tiến hóa đã bác bỏ toàn bộ nền thần học Ki Tô Giáo. Đặc biệt là trong thời đại thông tin điện tử này, không ai có thể dấu ai được điều gì, và con người có thể kiểm chứng những tài liệu nghiên cứu chính xác bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Làm sao giáo hội Ca Tô có thể thuyết phục được quần chúng bằng những lý thuyết mơ hồ không có một căn bản xác thực nào. Làm sao sao Ca Tô Giáo có thể thuyết phục con người bằng những thuyết sáng tạo, cứu rỗi, thiên đường, hỏa ngục trong khi chính giáo hoàng của họ đã chính thức phủ bác những thuyết này khi ông ta đã chính thức công nhận trước quần chúng thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa về nguồn gốc nhân loại, và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục. Trí tuệ người dân Việt Nam đâu còn ở mức trí tuệ của những nông dân hay dân chài ở những vùng hẻo lánh trong thế kỷ 18, 19? Liệu chính quyền Việt Nam và người dân Việt Nam có để cho những nhà truyền giáo Ca Tô tiếp tục lừa dối người dân bằng những chuyện hoang đường cổ xưa nay đã không còn một giá trị nào trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay? Chúng ta có đủ tài liệu và thông tin để chất vấn, bẻ ngược lại mọi luận điệu thần học giả dối của Ca Tô Giáo.
3). Dù sách lược Cải Đạo Á Châu mang nhãn hiệu “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Châu Á” nhưng bản chất “thần giáo” của Ki Tô Giáo không thể thay đổi. Do đó nền văn hóa KiTô không tránh khỏi vấp phải nền văn hóa Phật giáo đã bám rễ ăn sâu và đồng hóa với nền văn hóa truyền thống của dân Việt Nam, vốn là một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Sự tích dân tộc Việt Nam là Con Rồng Cháu Tiên của Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân và tục thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời, chứng tỏ người Việt Nam từ ngàn xưa đã bác bỏ quan niệm thần linh sinh ra con người. Còn gì nhân bản hơn là người tôn thờ người, và người thờ nhân tính. Đạo sống này của dân Việt Nam có trước cả khi Đức Phật, Lão Tử, Khổng tử hay Giê-su sinh ra đời. Và Phật Giáo đã đóng góp vào nền văn hóa đặc thù này bằng cách đưa vào chủ trương tôn trọng nhân phẩm của con người, tự tu tự chứng, mình làm chủ chính mình. Do đó, nền văn hóa nhân bản và nhân chủ của Việt Nam chính là thành trì chống nền văn hóa Kitô qui phục thần hữu hiệu nhất.
Tưởng chúng ta cũng nên biết, Tây phương ngày nay cũng đã nhận ra giá trị đích thực của một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Ngay gần đây, tháng 4, 2003, hội những người Mỹ theo chủ nghĩa nhân bản và nhân chủ (Humanists) đã phổ biến một bản Cương Lĩnh số 3 khẳng định “bác bỏ ý tưởng là có một Thiên Chúa cần phải “cứu” nhân loại” (rejecting the idea that there is a God who needs to “save” humanity), “chỉ có đạo đức con người mới quyết định tương lai của thế giới” (human’s ethical behavior alone will dictate the future of the world), “Trách nhiệm về đời sống của chúng ta và cái thế giới mà chúng ta sống trong đó là thế giới của chúng ta và chỉ của chúng ta mà thôi” (The responsibility for our lives and the kind of world in which we live is ours and ours alone). Ký tên trên bản Cương Lĩnh (Manifesto) này là 19 nhân vật đã được trao tặng giải Nobel, và 57 nhà trí thức có tên tuổi khác trong đó có tiểu thuyết gia Kurt Vonnegut và nhà đạo diễn Oliver Stone. Năm 1973, hội này cũng ra tuyên ngôn cho rằng “sự tin vào một Thiên Chúa đáp ứng những lời cầu nguyện “không chứng minh được và lỗi thời” và một niềm tin như vậy cho chúng ta “những hi vọng hão huyền về một thiên đường trong đời sau”” (belief in a prayer-answering God “unproved and outmoded”, such a belief offers “false hopes of heaven hereafter”.) Hội này tin rằng con người được kêu gọi để sống đạo đức mà không cần phải có sự trợ giúp siêu nhiên của một thần, của các nam thần hay nữ thần nào, hay của một lực huyền bí không có tình người nào. (Humanists believe that people are called to ethical living “without supernatural assistance from a god, gods or godesses or an impersonal mystical force.)
Nền văn hóa Phật Giáo cao hơn nền văn hóa Ki Tô rất nhiều, điều này không ai có thể phủ nhận, trừ phi chúng ta đánh đồng sai lầm nền văn hóa Ki Tô với những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của xã hội của Tây phương, những tiến bộ mà Ki-Tô giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng, đã tích cực ngăn chặn (đốt sách vở, đốt luôn cả khoa học gia, cấm tín đồ đọc sách v..v..) nhưng không nổi, cho nên ngày nay đã nhận vơ làm “nền văn hóa Ki Tô Giáo”. Ngày nay, Tây phương đã nhận ra chân giá trị của Phật Giáo, và Phật Giáo phát triển rất tự nhiên trong những xã hội Tây phương mà không hề có ý định cải đạo người khác hoặc kiếm thêm tín đồ. Đụng phải cái thành trì Phật Giáo ở Á Đông, Ki Tô Giáo không có cách nào thắng được Phật Giáo vì từ giáo lý cho đến thực hành, từ bản chất của mỗi tôn giáo cho đến những phúc lợi mà mỗi tôn giáo đã mang đến cho nhân loại, từ đạo đức tôn giáo cho tới trí tuệ của những vị lãnh đạo tinh thần trong mỗi tôn giáo v..v.., Ki Tô Giáo đều không thể so sánh với Phật Giáo được.
4). Bản chất của Giáo hội Ca-Tô Việt Nam chỉ là một mớ
tín đồ hạng hai. Ca-Tô giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400 năm sau (1933) mới có một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng tệ hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những quyết định của Vatican xâm phạm đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam. Chừng nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn. Tinh thần nô lệ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần yêu nước, yêu độc lập của người dân Việt Nam, đã được chứng minh qua bao cuộc đánh đuổi quân ngoại xâm. Với sách lược Cải Đạo Á Châu qua những thủ đoạn bất chính, liệu Ca Tô Giáo có tin rằng những người ngoại đạo ở Việt Nam sẽ để yên cho Giáo hội muốn tuyên truyền lừa dối đồng bào của họ ra sao cũng được? Hay tin rằng người dân Việt Nam đã quên đi vai trò của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma tại Việt Nam trong việc đưa nước Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp?
5). “Thần học” là một bộ môn chưa bao giờ có và không thể nào có trên đất Á Châu. Á Châu có rất nhiều thần: thần ác, thần thiện, thần cây đa, thần bình vôi, thần hoàng làng (thường là những nhân vật có công với đất nước được sắc phong của nhà vua), thần hà bá v..v.. Nhưng Á Châu không có môn học nào gọi là thần học. Cho nên “thần học Ki Tô Giáo”, bất kể là mang nhãn hiệu nào, Á Châu hay Phi Châu, của phái nữ hay giải phóng, đen hay đỏ, hay cả dâm ô (Xin đọc Theological pornography của Mary Hunt) đều không có tác dụng trên đầu óc người Á Đông. “Thần học Ki Tô Giáo” chỉ có thể hợp những người có đầu óc yếu kém, không thể tự mình bước đi trên đường đời, cho nên lúc nào cũng phải dựa vào một cặp nạng thần học, một cặp nạng đã mọt rỗng đến tận cốt lõi. “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Châu Á” cũng không ra ngoài lệ vì bản chất nó chỉ là “thần học” và được xây dựng trên những luận cứ xảo quyệt, gian dối hạ đẳng như đã được chứng minh trong các phần phân tích ở trên.
Trên đây chỉ là vài lý do chính mà tôi nghĩ sách lược Cải Đạo Á Châu sẽ không thể nào thành tựu ở Á Châu nói chung, Việt Nam nói riêng. Giáo hoàng đặt kế hoạch trồng cây Ca-Tô Giáo vào những miền đất ở Á Châu trong thiên niên kỷ thứ ba, theo thường lịch. Điều hiển nhiên là đất Á Châu không thích hợp với cây Ca-Tô. Trồng vào đó, cây tuy không đến nỗi chết héo queo như cây sung bị Chúa Giêsu nguyền rủa, không bao giờ có thể ra trái được nữa, nhưng có lẽ cũng chỉ sống một cách èo ẹt, không có nhiều sinh khí. “Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa cứu độ Á Châu” trong 2000 năm qua vẫn tiếp tục kỳ diệu như cũ, nghĩa là Á Châu vẫn tiếp tục từ chối không muốn biết đến Thiên Chúa. Lịch sử không đi giật lùi. Không ai có thể đi ngược lại đà tiến hóa của con người. Người dân Việt Nam không lẽ lại tệ hại đến mức phải đi hốt những thứ làm ô nhiễm đầu óc con người mà Âu Châu và Mỹ Châu đang đào thải dần dần, và coi đó là những của báu trên trần gian. Tôi thực tình không tin như vậy.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải đề cao cảnh giác về hiểm họa Ki Tô Giáo. Hiểm họa Ki Tô Giáo ở trên thế giới là một hiểm họa có thực. Lịch sử đã chứng tỏ như vậy. Chúng ta không nên bị mê hoặc bởi luận điệu: “Tôn giáo nào cũng tốt như nhau cả, đều dạy con người làm lành, tránh ác.”
Bản chất của Ca-Tô Giáo và Tin Lành là lợi dụng sự cuồng tín của tín đồ, tạo thành một lực lượng xã hội, để khi có cơ hội và quyền thế thì sẽ khuynh loát chính quyền, đàn áp và áp bức tín đồ của các tôn giáo khác. Bản chất cuồng tín này, nếu ở vị thế nắm quyền hành thì sự tác hại của nó đối với khối dân chúng không đồng tín ngưỡng không biết lên tới mức độ nào. Kinh nghiệm lịch sử ở những nơi mà Ca-Tô giáo là chủ lực tinh thần trong thời Trung Cổ, và trong thời cận đại ở Tây Ban Nha dưới quyền của nhà độc tài Ca-Tô Franco, ở Croatia dưới quyền của tên Ca-Tô Ante Palevic và những linh mục khát máu, và ở Nam Việt Nam dưới chế độ Ca-Tô Ngô Đình Diệm là một tấm gương cảnh tỉnh những người còn mơ mộng là “tôn giáo nào cũng tốt cả”. Ngày nay, không ai còn coi Ki Tô Giáo là một lực lượng tôn giáo thuần túy mà trái lại chỉ là những định chế coi nặng vấn đề quyền lợi chính trị và kinh tế.
Ngày nay, không một người nào có đầu óc còn nghĩ đến những biện pháp cấm đạo và bách hại những người đi đạo như khi xưa nữa. Vậy biện pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam? Tôi cho rằng, để tránh cái hiểm họa Ca-Tô và Tin Lành, cái hiểm họa đã được chứng tỏ trong 2000 năm lịch sử của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-Tô giáo , ở Việt Nam, ngoài việc cương quyết ngăn chận sự xâm nhập của các thừa sai truyền đạo vào trong đất nước, con đường hữu hiệu nhất là con đường mở mang dân trí. Qua con đường này, người dân sẽ biết rõ về bản chất và những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng, và từ đó sẽ đỡ bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo giả dối, che đậy thực chất mê tín, hoang đường, phi lý của Ki Tô Giáo. Theo nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, “Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt” chỉ có sự mở mang dân trí và đời sống thoải mái kinh tế mới có thể loại trừ ảnh hưởng của Ca Tô Giáo.
Điều này đã xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao, và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo, bất kể tôn giáo đó là tôn giáo nào, và bất kể chủ đề nghiên cứu là chủ đề nào, của những người có uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo, học giả, chuyên gia, giáo sư đại học v..v.. được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Hi vọng với đà tiến triển về kinh tế hiện nay ở Việt Nam, với nhiều tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được nhà nước sáng suốt cho phép phổ biến, Việt Nam có thể giảm bớt hiểm họa Ki Tô trên đất nước.
Tôi thành thực ước mong chính quyền Việt Nam hãy lưu tâm đến hiểm họa Ki Tô Giáo trên đất nước và đưa ra một chính sách tôn giáo hợp lý, không thiên vị. Đừng bao giờ để rơi vào những cạm bẫy “đoàn kết tôn giáo” hay “đoàn kết quốc gia” mà ngăn chận chính sách mở mang dân trí. Dân trí mở mang không bao giờ có thể là nguồn gốc của sự chia rẽ hay gây hận thù. Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được phổ biến rộng rãi, là một bằng chứng rõ rệt nhất về lợi ích của việc mở mang dân trí để cho người dân biết rõ sự thật về tôn giáo trong xã hội. Thật vậy, khoảng 85% dân Mỹ theo Ki Tô Giáo trong đó có khoảng 25% theo Ca Tô Giáo Rô Ma, hơn 90% dân Pháp rửa tội theo Ca Tô Giáo v..v.. nhưng những tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo: những sự thực về lịch sử những tội ác của Ca-Tô Giáo, về tổ chức độc tài của Giáo hội, về những thần quyền tự phong của giới lãnh đạo Ca-Tô, cùng những tín điều hoang đường phi lô-gic, phi lý trí, phản khoa học, huyền hoặc, lỗi thời v..v.. của Ca-Tô Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, về con người lịch sử Giê-su, về những sai lầm trong Thánh Kinh v..v.. đều được tự do phổ biến mà các chính quyền Mỹ, Pháp không sợ làm mất sự “đoàn kết tôn giáo” hay “đoàn kết dân tộc” trên đất nước của họ, thì thử hỏi tại sao Việt Nam chỉ có 7% dân chúng theo Ca Tô Giáo mà chính quyền lại sợ rằng những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh với đầy đủ tài liệu về tôn giáo lại có thể ảnh hưởng đến sự đoàn kết tôn giáo hay đoàn kết dân tộc trên đất nước? Ngăn chận sự mở mang dân trí trong thời buổi này là có tội với dân tộc, với lịch sử.
Việt Nam cần phải ý thức được sự nguy hại của chiêu bài nhập nhằng tự do tôn giáo với tự do truyền đạo để có thể tìm cách đối phó, đưa ra những biện pháp ngăn chận thích nghi, hợp lý. Những biện pháp ngăn chận này phải nằm trong quốc sách và phải được cương quyết thi hành. Tôi tin rằng đa số người dân Việt Nam sẽ ủng hộ những biện pháp bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt Nam này vì chúng ta ý thức rõ ràng rằng không có một chế độ nô lệ nào độc hại bằng nô lệ văn hóa.
Sách lược truyền giáo của Ca-Tô Giáo là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Ca-Tô Giáo còn ghi rõ trong sử sách. Ở đây, sách lược truyền giáo của đạo Ca-Tô đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Ca- Tô Giáo, từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình. Ca-Tô Giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ. Gần đây, Ca-Tô giáo còn đưa ra sách lược nham hiểm: dùng bọn người trí thức nô lệ mất gốc, đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam, nhất là lịch sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh đồng khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam hoặc Phật Giáo với nền văn hóa Ki Tô, ngụy trang đằng sau những chiêu bài đầu môi chót lưỡi như “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, hoặc “quay về với truyền thống dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”, trong khi bản chất độc tôn cuồng tín về “Chúa KiTô là đấng trung gian duy nhất”, nô lệ Vatican vẫn không thay đổi. Chính quyền và người dân Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để biết rõ những âm mưu lũng đoạn quốc gia Việt Nam, và nhất là thái độ “không đội trời chung” của Ca-Tô Giáo đối với Cộng Sản, để biết đường mà tránh đi trên con đường đưa tới sự tự hủy diệt. Thế lực của Ca Tô Giáo hoàn vũ ngày nay chỉ là một lớp sơn phết bên ngoài, thực lực càng ngày càng yếu, không còn nắm quyền sinh sát như ngày trước, cho nên muốn gì giáo hội chỉ còn biết cầu nguyện.
Người Việt Nam chúng ta thường tự hào với 4000 năm văn hiến. Thật ra, nền văn hóa nhân bản (lấy con người làm gốc), nhân chủ (con người tự quyết định số phận mình) và định cư (không lang thang nay đây mai đó) của dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa đối ngược với loại văn hóa thần linh, du mục của dân Do Thái, còn lâu hơn là 4000 năm. Nền văn hóa này, được biết trong giới khoa học và khảo cổ là nền văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt Nam). Tiến sĩ Wilhel G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học ở trường đại học Hawaii đã viết: “Tôi không ngạc nhiên nếu thời kỳ văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt Nam) bắt đầu khoảng 15000 (mười lăm ngàn) năm trước Tây Lịch.. Trên một mảnh sành khoảng 6 cm vuông, chúng tôi đã thấy dấu vết vỏ một hạt thóc oriza savita. Dùng carbon 14 định tuổi những đồ vật bị vùi ở lớp đất trên lớp đất vùi mảnh sành, chúng tôi biết là mảnh sành – và hạt lúa – đã có niên đại muộn là 3500 trước Tây Lịch” (Wilhelm G. Solheim II, New Light On A Forgotten Past, National Geographic, Vol. 139, No. 3, March 1971). Như vậy, tính đến thế kỷ 16, khi Ca-Tô giáo bắt đầu du nhập Việt Nam, thì Việt Nam đã có một lịch sử và một nền văn hóa không hề biết đến Chúa Cha cũng như Chúa Con trong ít nhất là 5000 năm. Trong 5000 năm này, tổ tiên chúng ta đã tốn bao xương máu, mồ hôi, nước mắt để xây dựng nước và giữ nước, bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Bổn phận của mọi người Việt chúng ta là phải tiếp nối truyền thống anh dũng của ông cha, không thể đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại, không thể để cho một ý thức hệ hoang đường, vô tổ quốc, vô gia đình, có nhiều sắc thái đế quốc như ý hệ Ca Tô xâm lấn với mục đích biến đổi, đưa nền văn hóa và tôn giáo dân tộc của chúng ta xuống hạng hạ căn qui thần, “quên mình trong vâng phục” mấy tên mũi lõ mắt xanh vô đạo đức ngồi ở Rô Ma nghĩ kế hoạch tước đoạt trí tuệ và khả năng suy tư của người dân Việt Nam. Chúng ta không nên quên rằng, ông cha chúng ta trước đây đã qui kết Ca Tô Giáo Rô Ma là một tà đạo. Nhận định chính xác này thật là đáng phục ở thời điểm mà các công cuộc nghiên cứu về Ca Tô Giáo chưa phát triển. Tà là không ngay thẳng, không chính trực, gian dối. Ngày nay, qua những tác phẩm nghiên cứu về Ca Tô Giáo, càng ngày chúng ta càng thấy lộ ra bản chất tà giáo của tôn giáo này.
Thật vậy? Thứ nhất, tôn giáo này đã được xây dựng trên những tà thuyết mà ngày nay Tây phương đã không còn chấp nhận, ít ra là trong giới trí thức hiểu biết. Như trên chúng ta đã biết, Mục sư Ernie Bringas đã đưa ra nhận định: “Đa số các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy tín lý giáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại” và Giám mục John Shelby Spong đã khẳng định: “..một đấng cứu thế (Giê-su) có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước-thời-Darwin và một sự vô nghĩa sau-thời-Darwin.” (A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.), và nhà thần học nổi danh, Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị giáo sư thần học của Ca Tô Giáo, đã qui kết những chuyện trong Tân Ước như “Giê-su sinh ra từ một nữ trinh”, “các phép lạ Giê-su làm”, “Giê-su sống lại”, “Ngôi mộ trống”, “Giê-su thăng thiên”, “những chuyện trong Sứ Vụ Các Tông Đồ (Acts)”, “Phê-rô ở Rô-ma” v..v.. đều là những chuyện trẻ con, cần phải dẹp bỏ [Xin đọc cuốn Putting Away Childish Things của Giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann) Thứ nhì, chỉ có một tà giáo mới có thể gây ra 7 núi tội lỗi mà giáo hoàng đã phải xưng thú trước thế giới. Thứ ba, sách lược cải đạo Á Châu, như được phân tích trong các phần trên, đã chứng minh rằng đó chỉ là những thủ đoạn bất chính để thực hiện mưu đồ xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Đông.
Tuy nhiên, không ai cấm con người tiếp tục tin vào những tà thuyết hay những điều không có thực, như tin là có thần bình vôi, có Chúa sống lại, có chú Cuội ngồi gốc cây đa trên cung Hằng, hay như trẻ con để răng sữa dưới gối, treo bít tất ở lò sưởi để nhận quà của ông già Noel v..v.. Nhưng tà thuyết luôn luôn vẫn chỉ là tà thuyết, điều không có thực luôn luôn cũng chỉ là lông rùa, sừng thỏ, bất kể là có bao nhiêu người vẫn còn tiếp tục tin vào tà thuyết hay những điều không có thực. Con người căn trí bất đồng, không ai có thể bắt buộc những tín đồ Ki Tô Giáo trong những ốc đảo ở Nam Mỹ, Phi Châu, Phi Luật Tân, Việt Nam, và ngay cả trên đất Mỹ, phải có cùng trình độ trí óc mở mang như đa số trên thế giới ngày nay.
Dù vậy, tôi không thể không có vài lời tâm huyết cùng các tín đồ Ki Tô Việt Nam, Ca Tô cũng như Tin Lành. Tôi không coi các bạn là kẻ thù. Đời tôi không có ai là kẻ thù. Nhưng lương tâm tôi không cho phép tôi nói lên những lời đãi bôi để tạo sự đoàn kết tôn giáo hay đoàn kết dân tộc. Tôi hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các bạn nhưng điều này không có nghĩa là tôi không được phép, hay không nên, nói ra những sự thực về tôn giáo của các bạn. Đây là một bổn phận đối với mọi người còn nghĩ đến quốc gia dân tộc. Qua những phần phân tích ở trên, tôi tin rằng mọi người Việt Nam yêu nước đều ý thức được bổn phận phải vạch trần âm mưu bất chính của Vatican trong sách lược Cải Đạo Á Châu và từ đó, có bổn phận phải tập trung nỗ lực để ngăn chận mọi thủ đoạn truyền đạo bất chính của Ki Tô Giáo trên đất nước..
Tôi hi vọng các bạn có thể sáng suốt nhận ra rằng, từ xưa đến nay các bạn đã bị lừa vào một niềm tin không đáng. Có đáng hay không khi các bạn vẫn tiếp tục bám víu vào một hi vọng hão huyền: sự “cứu rỗi” của một người Do Thái tên là Giê-su mà chính Giáo Hoàng hay một số giám mục, linh mục, mục sư, những người lãnh đạo tinh thần các bạn, đã bác bỏ. Giáo Hoàng của các bạn đã phủ nhận thuyết sáng tạo, phủ nhận “tội tổ tông”, phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, Giám mục Spong đã coi vai trò “cứu thế” của Giê-su như là một sự vô nghĩa hậu – Darwin, Mục sư Ernie Bringas đã gọi sự “cứu rỗi” của Giê-su là một cái bánh vẽ trên trời,, và giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann đã coi tất cả những điều các bạn tin là những chuyện trẻ con, cần phải dẹp bỏ. Vậy tại sao các bạn còn cứ tự giam mình trong những giáo hội mà lịch sử đen tối của chúng đã rõ rệt. Các bạn có cho rằng, các bạn chỉ cần đến một đức tin là đủ, là các bạn ở trong một “hội Thánh”, còn những chuyện ô nhục giáo hội làm trong suốt mười mấy thế kỷ, hay những luận điệu lừa bịp của giáo hội để kéo các bạn vào một đức tin không thực, hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến các bạn? Nếu các bạn không dứt bỏ được, ít nhất là gánh nặng Vatican, trên vai thì các bạn sẽ kẹt lắm. Bất kể là các bạn tin thế nào, dùng luận cứ gì, những sự thực lịch sử của giáo hội Ca Tô Rô Ma sẽ gắn liền với đời sống tâm linh của các bạn mà các bạn không có cách nào có thể tách rời nó ra khỏi đời sống tâm linh của các bạn. Với phương tiện truyền thông đại chúng ngày nay, với số người Việt sống ở nước ngoài, và cả ở trong nước, không có cách nào các bạn có thể ngăn chận được những thông tin xác thực về Ki Tô Giáo. Hi vọng các bạn sẽ có một chọn lựa sáng suốt.
Trong cuốn A New Christianity For A New World, xuất bản năm 2001, Giám mục John Shelby Spong có liệt kê những tín điều căn bản sau đây của Ki Tô Giáo:
– Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa.
– Tư cách thần thánh của Giê-su vì sinh ra từ một nữ trinh.
– Cái chết của Giê-su là để chuộc tội cho nhân loại, và máu của Giê-su là năng lực cứu rỗi (saving power of his blood)
– Thân xác Giê-su sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật cũng như những chuyện Giê-su hiện ra sau khi chết.
– Ngày trở lại của Giê-su để phán xét nhân loại.
và đưa ra lời khẳng định sau đây:
Ngày nay tôi thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu theo truyền thống, không những là ngây ngô, mà còn có thể dứt khoát loại bỏ. Trong thế hệ của chúng ta, không một tín lý nào ở trên được các học giả Ki Tô danh tiếng xác nhận. (Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood, to be not only naive, but eminently rejectable. Nor would any of them be supported in our generation by reputable Christian scholars.)
Hi vọng bài viết này có thể đóng góp một phần nhỏ trong nhiệm vụ bảo vệ nền văn hóa và tôn giáo dân tộc của Việt Nam, đất nước thân yêu của chúng ta, và nhất là giúp các bạn Ki Tô nhìn ra được vấn nạn Ki Tô trên đất Việt.
Trần Chung Ngọc